Kinh tế Mĩ và cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam

Trước sự phá sản thảm hại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và nguy cơ tan rã hoàn toàn của ngụy quân, ngụy quyền, từ giữa năm 1965, đế quốc Mĩ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam nước ta, đồng thời mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân đối với miền Bắc. Với 20 vạn quân Mĩ, 2 vạn quân chư hầu (Nam Triều Tiên, Úc, Tân Tây Lan), trên nửa triệu quân ngụy, cùng với hạm đội “mạnh nhất” của chúng  Hạm đội 7  và đủ các thứ phi đoàn không quân “chiến lược”, “chiến thuật” đóng trên đất Thái Lan, Nhật Bản, Guy-am… đế quốc Mĩ vẫn nếm hết thất bại này đến thất bại khác. Như những con bạc khát nước, bọn trùm xâm lược vẫn tiếp tục đưa thêm lực lượng chiến đấu Mĩ vào miền Nam nước ta, theo đuổi cái chính sách mà nội dung được một tờ báo tư sản Mĩ diễn đạt một cách mỉa mai như sau: “leo thang càng kém kết quả bao nhiêu thì lại càng cần phải leo thang nhiều bấy nhiêu” (Thời báo Nữu Ước 21-7-1965). Bọn kẻ cướp Mĩ hy vọng rằng với khối lượng sắt thép và cái túi vàng khổng lồ của chúng, chúng có thể đè bẹp được ý chí giành độc lập của dân tộc ta và chiếm giữ miền Nam nước ta làm thuộc địa kiểu mới của chúng.

Trong chiến tranh, yếu tố kinh tế là một yếu tố hết sức quan trọng: sức mạnh của một lực lượng vũ trang bao giờ cũng gắn liền với những điều kiện và lực lượng kinh tế nhất định. Nhưng có phải cứ kẻ nào có nhiều vàng và sản xuất được nhiều sắt thép thì kẻ ấy sẽ là kẻ chiến thắng hay không? Dựa trên những căn cứ nào mà chúng ta tin chắc rằng nhân dân Việt Nam ta, với một nền sản xuất kém Mĩ hàng trăm lần về mặt khối lượng sản phẩm, nhất định đánh bại được đế quốc Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược của chúng?

Hoàn toàn sai lầm nếu chỉ xét yếu tố kinh tế một cách cô lập, nếu chỉ đơn thuần so sánh khối lượng sản phẩm của hai bên rồi từ đó rút ra kết luận về sự so sánh lực lượng, ngay cả trường hợp tách riêng mặt kinh tế của cuộc chiến tranh ra mà xem xét như trường hợp chúng ta đang làm ở đây. Nước Mĩ là nước có nền sản xuất dồi dào nhất thế giới: Giá trị tổng sản phẩm xã hội hàng năm đạt 670 tỉ đô la (nếu tính bằng đô la thì tổng sản phẩm xã hội ở miền Bắc nước ta đạt khoảng 2 tỷ), hàng năm Mĩ sản xuất trên 100 triệu tấn thép, trên 160 triệu tấn ngũ cốc, v.v… (số liệu năm 1964-1965). Nhưng, đế quốc Mĩ là kẻ xâm lược, cuộc chiến tranh của chúng là cuộc chiến tranh phi nghĩa, không được nhân dân Mĩ và nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ, cuộc chiến tranh đó lại diễn ra ở nơi cách xa nước Mĩ 8.000 hải lý (khoảng 15.000 km), bản thân chủ nghĩa đế quốc Mĩ và nền kinh tế lại bị xâu xé bởi nhiều mâu thuẫn cố hữu. Trong những điều kiện như vậy, thì bọn cầm quyền hiếu chiến Mĩ có thể huy động được đến mức nào lực lượng kinh tế hùng hậu của nước Mĩ để ném vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam? Và nếu huy động được thì, một khi kết hợp được với yếu tố con người và do con người chi phối, lực lượng vật chất chết kia có thể biến thành lực lượng chiến đấu như thế nào trên chiến trường? Điều có thể khẳng định được là: đế quốc Mĩ vấp phải những sự hạn chế rất lớn. Vả chăng, kết cục của chiến tranh không phải chỉ do một phía quyết định, sức mạnh của một lực lượng chiến đấu nào đó không phải chỉ do sức mạnh tuyệt đối của bản thân nó quyết định. Dù cho lính Mĩ được trang bị hiện đại và đầy đủ như thế nào thì trong cuộc đọ sức với cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ của trên 30 triệu người Việt Nam quyết chiến, quyết thắng, nó vẫn là một kẻ chiến bại, đã chiến bại, đang chiến bại và sẽ chiến bại hoàn toàn.

Để làm rõ những luận điểm trên đây, chúng ta hãy phân tích – trên những nét chủ yếu – “sức mạnh kinh tế” của đế quốc Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Có hai vấn đề cần phải làm rõ, đó là vấn đề tài chính và vấn đề hậu cần của đế quốc Mĩ.

Đế quốc Mĩ có khả năng huy động tài chính như thế nào để ném vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta?

Để thực hiện mưu đồ xâm lược nước ta, đế quốc Mĩ đã từng đóng góp với Pháp 1,5 tỉ đô la chiến phí trong những năm 1950-1954, tức là gần một nửa tổng số chiến phí của Pháp trong thời gian đó của cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Từ năm 1955 đến năm 1964, thông qua cái gọi là “viện trợ” cho chính quyền tay sai ở miền Nam, chúng lại bỏ ra 3,3 tỉ đô la nhằm biến miền Nam nước ta thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới của chúng.

Sang năm 1965, đi đôi với những bước “leo thang” mới trong cuộc chiến tranh xâm lược của chúng, đế quốc Mĩ lại nhiều lần tăng khoản “chi tiêu đặc biệt cho vấn đề Việt Nam”. Tháng 5-1965, Giôn-xơn xin thêm quốc hội Mĩ 700 triệu đô la. Tháng 8-1965 hắn lại xin thêm 1,7 tỉ nữa. Ngày 19-1-1966, hắn đưa ra quốc hội thông qua dự án ngân sách 1966-1967 (từ 1-7-1966 đến 30-6-1967) với tổng số dự chi là 112,8 tỉ đô la, một con số chi tiêu hàng năm lớn nhất trong lịch sử nước Mĩ. Riêng khoản chi phí trực tiếp về quân sự chiếm 60,5 tỉ đô la, tức là hơn 53% ngân sách. Con số này lớn hơn cả ngân sách quân sự của Mĩ hồi chiến tranh xâm lược Triều Tiên (1950: 13 tỉ, 1951: 22,3 tỉ, 1952: 43,8 tỉ, 1953: 50,2 tỉ) và chỉ thấp hơn ngân sách quân sự của Mĩ trong 3 năm cuối của chiến tranh thế giới thứ hai (1943: 70,2 tỉ, 1944: 83,7 tỉ, 1945: 84,5 tỉ). Theo báo cáo của chính quyền Giôn-xơn thì chỉ riêng việc tăng cường chiến tranh xâm lược nước ta đã buộc chúng phải chi thêm 4,7 tỉ đô la trong tài khóa 1965-1966 và 10,3 tỉ đô la trong tài khóa 1966-1967, cộng là 15 tỉ đô la. Con số này không bao gồm tiền chi về các dụng cụ chiến tranh lấy từ các kho sẵn có, cũng như không bao gồm tiền chi thường xuyên cho bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mĩ, kể cả 20 vạn quân viễn chinh, được huy động vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là bao nhiêu? Hãng AP ngày 5-2-1966 đưa tin: “Thượng nghị sĩ Phunbơrai nói: theo ông, cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã làm cho Mĩ mất 15,8 tỉ đô la trong năm 1965, và ông tỏ vẻ nghi ngờ trong con số chính thức trong ngân sách”. Ngày từ tháng 9-1965, tên lái súng Pho, lãnh tụ đảng cộng hòa, tại Hạ nghị viện Mĩ, đã nói toạc ra rằng đến lúc đó đã tiêu tốn 7,5 tỉ đô la, và ngân sách của Giôn-xơn không phản ánh chi phí thật sự về cuộc chiến tranh leo thang đó. Lúc ấy chính phủ Mĩ yêu cầu tăng ngân sách quân sự thêm 1,7 tỉ đô la nhưng theo Pho thì thực tế là cuộc leo thang đang đòi hỏi phải chi chừng 10 tỉ đô la (UPI 11-9-1965). Việc bọn cầm quyền Mĩ che giấu nhân dân Mĩ những chi phí thật sự trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là điều dễ hiểu. Theo sự tiết lộ trên đây của một số nhân vật cầm quyền Mĩ, chúng ta hãy tạm coi con số 15 tỉ đô la là tổng chi tiêu của Mĩ trong năm 1965 về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sang năm 1966, nếu đưa tới 30-40 vạn quân Mĩ sang Việt Nam, theo như ý đồ của chúng, thì ít ra đế quốc Mĩ cũng phải tăng số chi phí đó lên gấp đôi. Chính Giôn-xơn khi báo cáo trước quốc hội cũng thú nhận là dự án ngân sách mà hắn đưa ra có thể còn phải bổ sung thêm tùy theo sự phát triển của tình hình. Đối với con bạc khát nước, thật quả khó mà lường được túi tiền như thế nào là đủ!

Đế quốc Mĩ có thể động viên được một nguồn tài chính như thế nào vào cuộc chiến tranh xâm lược không, và động viên bằng những biện pháp nào?

Nước Mĩ giầu thật, nhưng với chính sách bóp nặn của bọn cầm quyền Mĩ trong mấy chục năm lại đây để dốc vào cuộc chạy đua vũ trang và mưu đồ bá chủ thế giới thì khả năng động viên thêm hàng chục tỉ đô la không phải là một việc dễ dàng. Kể từ những năm chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, ngân sách của chính phủ liên bang Mĩ hàng năm ngốn hết trên dưới 20% tổng số thu nhập quốc dân. Năm 1965, với tổng số thu nhập quốc dân là trên 500 tỉ đô la, ngân sách liên bang của Mĩ đã chiếm hết hơn 100 tỉ. Trong báo cáo ngày 28-11-1965 gửi tổng thống Mĩ, giám đốc Cục ngân sách Mĩ cho rằng con số thiếu hụt của ngân sách trong tài khóa 1965-1966 có thể lên tới từ 8,5 đến 10,5 tỉ đô la. Ngân sách 1966-1967 theo công bố chính thức sẽ thiếu hụt 1,8 tỉ. Nhưng không ai tin con số đó là phản ánh của sự thật. Cơlintơn, thượng nghị sĩ Mĩ, cho rằng trong năm tới (tức là năm 1966) ngân sách Mĩ có thể hụt tới 12 tỉ đô la và trong hai hoặc ba năm tới có thể hụt tới 20 tỉ, nếu không cắt bớt những khoản chi phí cho chiến tranh (AP 28-12-1965).

Để ứng phó với việc dốc tiền của ngày càng nhiều vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và bù vào số thiếu hụt của ngân sách, chính quyền Giôn-xơn đã xoay sở đủ mọi cách. Trước hết bằng cách “tiết kiệm chi tiêu“.

Ngày 8-12-1965, Mắc Namara quyết định giảm 2/3 số máy bay ném bom tầm xa và bỏ 149 căn cứ quân sự ở Mĩ và ở nước ngoài để rút ra 410 triệu đô la bổ sung cho ngân sách chiến tranh ở Việt Nam. Ngày 20-12-1965, hắn lại cắt bỏ thêm một khoản 620 triệu đô la nữa, số tiền này định dùng để xây dựng doanh trại và căn cứ cho quân đội Mĩ. Cũng trong thời gian cuối năm 1965, Uỷ ban hàng không và vũ trụ của Mĩ phải cắt xén 35 triệu đô la trong chương trình vệ tinh. Các nhà vạch kế hoạch của Mĩ còn đang xét việc giảm số tiền 400 triệu đô la hàng năm chi cho các trường học. Hãng AFP ngày 4-1-1966 đưa tin: “Lầu năm góc sẽ cần ít nhất 60 tỉ đô la để đáp ứng phí tổn ngày càng tăng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Giôn-xơn đã ra lệnh giảm mọi chi tiêu khác của chính phủ đến tận xương tủy nếu có thể được”. Đic-xơn thủ lĩnh nhóm nghị sĩ Cộng hòa ở Thượng nghị viện Mĩ, khi nói đến việc quốc hội “sắp bàn một cách sâu sắc chưa từng thấy việc phân phối ngân khoản” đã nói: “Phải xét một cách kỹ càng từng đô la một cho chương trình trong nước của Giôn-xơn”.

Những lời nói và việc làm trên của bọn cầm quyền Mĩ đủ nói lên tình trạng căng thẳng về tài chính của chúng trước cuộc chiến tranh xâm lược hao người tốn của. Nước Mĩ giàu, nhưng điều đó không có nghĩa là bọn cầm quyền xâm lược Mĩ có hẳn một cái kho vàng vô tận để ném xuống vực thẳm của chiến tranh. Chúng bòn mót từng triệu đồng đô la để phung phí hàng chục tỉ vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Nhưng ngay cái khả năng bòn mót của chúng cũng rất hạn chế.

Rút bớt thêm căn cứ quân sự Mĩ ở nước ngoài ư? Như vậy thì càng sơ hở trước phong trào cách mạng đang sôi nổi khắp thế giới và càng bớt khả năng khống chế các chính phủ tay sai. Mĩ có 3.600 căn cứ quân sự ấy ở nước ngoài. Bao nhiêu căn cứ quân sự ấy là bấy nhiêu cái đinh đóng chặt chân tay của Mĩ xuống, căng đế quốc Mĩ ra khắp thế giới.

Cắt xén thêm chương trình vệ tinh ư? Thì Mĩ càng lạc hậu so với Liên Xô trong lĩnh vực chạy đua vũ trụ, mà theo Mĩ thì lĩnh vực này có ý nghĩa sinh tử về mặt quân sự.

Giảm bớt thêm chi phí về trường học, bệnh viện ư? Vốn ra những khoản chi này đã quá ư nhỏ bé mà giảm đi nữa thì càng khó đứng vững trước làn sóng phản đối chiến tranh xâm lược của nhân dân Mĩ đang dâng cao.

Chính vì cuộc chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam là cuộc chiến tranh phi nghĩa, chính vì đế quốc Mĩ là kẻ thù của nhân dân Mĩ và nhân dân thế giới cho nên chúng không thể thắt lưng buộc bụng cũng như đòi hỏi nhân dân Mĩ phải thắt lưng buộc bụng để dốc sức vào cuộc chiến tranh đó. Mỗi một sự “tiết kiệm chi tiêu” của chúng đều tạo ra những sơ hở hoặc khó khăn mới.

Việc bòn mót mọi nguồn tài chính để ném vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đụng chạm đến ngay cả khoản tiền “viện trợ” của Mĩ cho các nước. Người ta biết rằng trong khoảng thời gian từ sau đại chiến thứ hai đến nay, đế quốc Mĩ đã tung ra 115 tỉ đô la để “viện trợ” (kể cả cho không và cho vay) cho các nước ngoài, chủ yếu là viện trợ quân sự. Bằng số tiền đó, Mĩ đã mua được nhiều chính phủ tay sai và nhiều đội quân đánh thuê rải rác trên khắp thế giới. Đã có lúc thông qua “viện trợ”, chúng mua được cả châu Âu tư bản chủ nghĩa bao gồm những nước đế quốc như Pháp, Tây Đức, Ý, v.v… Ở miền Nam nước ta, từ năm 1954 lại đây, bằng việc bỏ ra mỗi năm vài ba trăm triệu đô la, đế quốc Mĩ nắm gọn trong tay cả bộ máy ngụy quyền và nửa triệu ngụy quân. Trong nhiều trường hợp chúng chỉ cần trả một giá rẻ hơn nhiều: mấy chục triệu đô la một năm. Xem vậy thì thấy “viện trợ Mĩ” đóng một vai trò quan trọng như thế nào trong âm mưu bá chủ thế giới của đế quốc Mĩ! Vậy mà bắt buộc phải giảm bớt “viện trợ” cho các nước để dốc vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, điều đó nói lên tình trạng căng thẳng về tài chính của Mĩ đồng thời phơi bày và làm sâu sắc thêm trong chính sách xâm lược của chúng. Về vấn đề này, hãng UPI ngày 17-1-1966 đưa tin:

“Hôm nay chính quyền Giôn-xơn nói rằng gần 1/3 số tiền 3,5 tỉ đô la chi cho quỹ viện trợ nước ngoài trong tài khóa 1965 đã chi vào việc giúp đỡ về quân sự và kinh tế ở vùng Viễn đông bị cộng sản đe dọa… Toàn bộ con số viện trợ đó là con số thấp nhất trong vòng 5 năm qua… 1,1 tỉ đô la chi cho Viễn đông thì phần lớn là chi cho Việt Nam và số còn lại thì chi cho Lào và Nam Triều Tiên. Về số tiền chi cho Việt Nam, khoảng 350 triệu đô la được chi dưới hình thức viện trợ kinh tế”. Điều đáng chú ý ở đây là: “toàn bộ con số viện trợ đó là con số thấp nhất trong vòng 5 năm qua” và “1,1 tỉ đô la chi cho Viễn đông thì phần lớn là chi cho Việt Nam”.

Theo các nguồn tin phương Tây thì chính phủ Mĩ còn yêu cầu các nước nhận “viện trợ” lương thực phải thanh toán một phần bằng đô la để giúp vào việc thăng bằng cán cân thu chi quốc tế của Mĩ (trước đây họ được phép thanh toán bằng tiền của nước họ). Điều này không khỏi ảnh hưởng đến quan hệ giữa Mĩ và các nước nhận “viện trợ” của Mĩ.

Nói riêng về ngụy quyền Sài Gòn thì tình trạng nguy ngập của nó đã buộc chính quyền Giôn-xơn không bao lâu sau khi thông qua số tiền “viện trợ” 650 triệu đô la nói trên lại phải đưa ra quốc hội Mĩ xin thêm một khoản bổ sung là 275 triệu (AP ngày 26-1-1966). Tuy nhiên, gần 1 tỉ đô la này vẫn không đủ để chống đỡ sự sụp đổ về tài chính của bè lũ bán nước.

Trương Thái Tôn, bộ trưởng kinh tế và tài chính của ngụy quyền Sài Gòn, ngày 23-8-1965 thú nhận: “Chồng chất lên trong 4 năm 1961 – 1965, tổng cộng thiếu hụt ngân sách lên tới 46 tỉ (tiền Nam Việt Nam), ấy là đã kể phần đóng góp của quỹ đối chiếu tiền tệ (tức là tiền bán hàng “viện trợ Mĩ”). Riêng về năm 1965, khoản thiếu hụt là 22 tỉ”. Vùng kiểm soát ngụy quyền ngày càng thu hẹp làm cho nguồn cướp bóc của chúng khô cạn đến mức mà việc in giấy bạc ra để chi tiêu là nguồn quan trọng bậc nhất, quan trọng hơn cả số tiền “viện trợ Mĩ” đã được tăng lên ba bốn lần so với những năm trước đây. Nạn lạm phát đang làm rối loạn toàn bộ nền kinh tế trong vùng ngụy quyền kiểm soát. Theo Vũ Quốc Thúc, nguyên “Thống đốc ngân hàng” của ngụy quyền Sài Gòn (báo Chính luận xuất bản ở Sài Gòn ngày 3-11-1965) thì khối lượng tiền giấy lưu hành ở miền Nam tăng lên như sau:

– Ngày 31-12-1955: 12,7 tỉ đồng miền Nam

– Ngày 31-12-1961: 17,2 tỉ đồng miền Nam

– Ngày 31-12-1964: 24,7 tỉ đồng miền Nam

– Tháng 9-1965: 41,2 tỉ đồng miền Nam.

Tờ Tin tức Mĩ và thế giới ngày 24-8-1965 hoảng hốt viết: “Nguy cơ của một cuộc khủng hoảng kinh tế ở miền Nam Việt Nam làm cho các quan chức Mĩ ghê người như là một âm mưu quân sự. Nạn lạm phát có thể còn là kẻ thù nguy hiểm hơn cả Việt cộng”.

Tờ báo Pháp Lơ Figarô ngày 7-11-1965 cũng viết: “Lạm phát ở miền Nam Việt Nam đã đạt đến vượt mức quá điểm báo động từ lâu rồi. Trong vòng một năm, tổng số bạc giấy lưu thông đã tăng lên 39%, trong khi ngân sách từ 25 tỉ đồng đã tăng lên 48 tỉ đồng. Và bây giờ thì sự thiếu hụt lên đến 20 tỉ, gần bằng ngân sách năm trước”.

Rõ ràng lạm phát là một nguyên nhân chủ yếu làm cho giá cả hàng hóa ở Sài Gòn cuối năm 1965 tăng lên từ 2 lần rưỡi đến 5 lần so với cuối năm 1964. Một nguyên nhân chủ yếu khác là việc hơn 20 vạn quân Mĩ và chư hầu ồ ạt kéo vào miền Nam. Bọn này tranh ăn với nhân dân các đô thị từ con cá, lá rau, lấn chiếm cả nguồn điện, nước và nhà ở.

Nếu đế quốc Mĩ quả là có một kho vàng vô tận thì sao không vãi một trận mưa vàng xuống mấy cái đô thị nhỏ bé kia để cứu lấy bọn tay sai của chúng khỏi nạn lạm phát đáng sợ? Nhưng kho “dự trữ chiến lược” trị giá hàng tỉ đô la mà Mĩ thường khoe khoang sao không tung vào Việt Nam để nuôi sống lấy quân đội ăn cướp của chúng? Điều bí ẩn là chỗ: đế quốc Mĩ tuy giàu nhưng mặt trận của chúng giăng ra khắp thế giới, cũng tức là lực lượng của chúng – cả quân sự lẫn kinh tế – buộc phải dàn mỏng ra khắp thế giới. Ngay ở miền Nam Việt Nam là nơi mà chúng coi là mảnh đất sống còn của chúng ở Đông Nam Á, chúng cũng chỉ bảo đảm nổi cho chính quyền tay sai có 1/5 tổng số chi! Vả chăng, chính bọn tài phiệt Mĩ cũng còn đang điên đầu trước nạn lạm phát “rất hiện thực” ở ngay sào huyệt của chúng thì làm sao cứu được bọn tay sai ở Sài Gòn khỏi chết ngụp trong cái biển tiền giấy!

Để có được một nguồn tài chính khổng lồ tung vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mĩ không thể không cầu cứu đến cái biện pháp cổ truyền của chúng: bóp nặn nhân dân Mĩ. Mặc cho Giôn-xơn tung ra những lời lẽ tuyên truyền bịp bợm về cách sống “cả súng lẫn bơ”, dư luận rộng rãi ở nước Mĩ ngày càng xôn xao về chuyện tăng thêm thuế má, lạm phát, giá sinh hoạt đắt đỏ, đồng đô la lung lay, v.v…

Để lừa mị nhân dân Mĩ, tranh thủ sự đồng tình của họ đối với chính sách hiếu chiến và xâm lược của hắn, Giôn-xơn đã từng đưa ra cái kế hoạch gọi là “xây dựng xã hội vĩ đại” mà nội dung là tăng thêm một số khoản chi của nhà nước về y tế, công ích, trường học, giao thông vận tải. Cái “xã hội vĩ đại” mà Giôn-xơn xây dựng cũng như cuộc “chiến tranh chống nghèo đói” của hắn thực ra chỉ là một số khoản bố thí nhỏ giọt. Nếu theo công bố chính thức (chắc chắn thấp nhiều so với thực tế), số người được chính thức liệt kê vào hạng “nghèo khổ” ở Mĩ năm 1963 là 35,3 triệu thì sang năm 1964 mặc dầu kinh tế phát triển khá, nó vẫn gần như ở nguyên mức ấy: 34,3 triệu người. Ngày nay đứng trước cái ngân sách chiến tranh đồ sộ của Giôn-xơn thì ngay cả viễn ảnh bủn xỉn về “xã hội vĩ đại” của hắn đã biến thành ảo ảnh trước mắt nhân dân Mĩ, còn cuộc “chiến tranh chống nghèo đói” của hắn thì chỉ có nghĩa là chiến tranh và nghèo đói. Nhân ngày lễ Nô-en vừa qua, phóng viên hãng Roitơ (Anh) ở Hoa-thịnh-đốn miêu tả tâm trạng của nhân dân Mĩ như sau: “Không khí ngày lễ Nô-en ở Mĩ bị đen tối… Việc Mĩ chi hàng tỉ đô la trong cuộc chiến tranh lớn chưa từng thấy, tự nhiên làm cho người ta thấy cách sống “vừa súng vừa bơ” của họ có thể phải thay đổi”.

Cũng với mục đích lừa mị, trước đây Giôn-xơn đã từng quyết định giảm một số thuế, nói là để “tăng sức mua của thị trường”. Trong khi xoay sở để tăng ngân sách quân sự, Giôn-xơn đã yêu cầu đánh trở lại những khoản thuế vừa được bãi bỏ. Các giới cầm quyền Mĩ nói nhiều đến việc tăng thuế, mặc dầu bè lũ Giôn-xơn cố tình che giấu. Tờ Tin tức Mĩ và thế giới ngày 2-8-1965 viết: “Thuế đánh thêm cũng sẽ được thực hiện vào ngày 1-1 này và khá gay go. Thuế tối đa hiện nay là 174 đô la đối với một người chủ và một người thợ. Thuế tối đa sau ngày 1-1 là 277,20 đô la, tăng hơn 100 đô la. Đối với những người tự làm lấy sẽ tăng từ mức tối đa 259,20 đô la hiện nay lên 405,90 đô la sau ngày 1-1. Nhưng thứ thuế này sẽ còn tăng lên trong những năm sau này. Điều đó đã được pháp luật đề ra”.

Không tăng thuế, đế quốc Mĩ không có cách gì duy trì một ngân sách quân sự to lớn như vậy. Hồi xâm lược Triều Tiên (1953), chúng đã tăng thuế lên đến mức nuốt mất 23,4% thu nhập quốc dân, riêng thuế đóng góp 94,5% tổng số thu trong ngân sách liên bang. Những năm gần đây, ngay trong thời bình, chúng cũng duy trì thuế ở một mức rất cao. Năm 1964 thuế do chính phủ liên bang thu là 83,3 tỉ đô la, chiếm 16,3% thu nhập quốc dân và đóng góp tới 85,6% tổng thu trong ngân sách. Đó là chưa tính số thuế phải nộp cho chính quyền các bang. Nếu gộp cả hai loại thuế này thì tổng số thuế năm 1965 là 156 tỉ đô la, chiếm tới 30% thu nhập quốc dân. Trong tình hình mà gánh nặng thuế khóa đạt gạt đến mức như vậy thì liệu bọn cầm quyền Mĩ có dám tấn công vào mức sống của nhân dân hơn nữa không? Chúng có thể bòn rút thêm hàng chục tỉ đô la, đó là điều mà bọn phát xít trước nay dám làm. Nhưng điều chắc chắn sẽ là sự phản đối của nhân dân đối với cuộc chiến tranh xâm lược của chúng sẽ tăng lên theo tỉ lệ thuận cùng với sự bòn rút đó. Và không phải chỉ có sự phản đối của nhân dân. Ngay cả bọn tư bản phải chịu thuế mà ít xơ múi trong bàn tiệc máu của cuộc chiến tranh xâm lược cũng sẽ không ngồi yên. Và thực tế chúng đã chẳng nghe thấy những tiếng la ó lẻ tẻ phát ra từ trong Thượng và Hạ nghị viện Mĩ đó sao?

Việc phát hành công trái mà thực chất là vay nợ của các tập đoàn tài chính Mĩ là một “giải pháp” mà bọn cầm quyền Mĩ ưa dùng để lấp lỗ hổng của ngân sách. Vay nợ như vậy thì trước mắt chưa động chạm gì đến những công dân chịu thuế, nhưng chung quy lại thì vẫn là những người này phải nộp thuế cha truyền con nối – để trả lãi và vốn cho bọn tài phiệt chủ nợ của chính phủ Mĩ. Chính phủ này đã biến thành chính phủ mắc nợ nhiều nhất trên thế giới: số nợ của nó hiện nay lên tới 315 tỉ đô la, và hàng năm nó phải trích trên 1/10 ngân sách để trả lãi (năm 1964: 11,3 tỉ, năm 1965: 11,6 tỉ). Thật là một cái vòng luẩn quẩn, vì thiếu hụt ngân sách mà phải vay nợ, để rồi vì trả lãi mà ngân sách lại càng thiếu hụt. Chừng nào chính phủ Mĩ còn sắm vai tên sen đầm quốc tế và trước mắt, còn dấn sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, thì chừng ấy, cái vòng luẩn quẩn mà nó tự tạo ra cho nó càng siết chặt lại như một sợi dây treo cổ.

Biện pháp cuối cùng của đế quốc Mĩ là lạm phát. Mặc dù giới cầm quyền Mĩ tự dành cho chúng cái quyền chi phối hàng năm trên dưới 100 tỉ đô la: tức là 1/3 tổng số thành quả lao động của nhân dân Mĩ, chúng vẫn luôn luôn cảm thấy túng quẫn, và cuối cùng không thể không dùng đến biện pháp in bạc giấy mà chúng biết là nguy hiểm cho chính quyền địa vị thống trị của chúng. Hãng AFP ngày 3-12-1965 đưa tin: “Lạm phát ở Mĩ không còn là việc có xảy ra hay không mà là một hiện thực… vì khối lượng tiền tệ (tiền gửi không kỳ hạn và tiền lưu hành) từ 159,7 tỉ cuối năm 1964 đã tăng lên 164 tỉ vào 30-9-1965. Trong vòng một năm, tổng số nợ công đã tăng ước 3,5 tỉ đô la và lên đến 315 tỉ”.

Lạm phát, đối với nhân dân, là một thứ thuế phụ thêm. Còn đối với bọn tư bản độc quyền Mĩ, nó có ý nghĩa hai mặt. Một mặt, nó cho phép giới cầm quyền Mĩ giải quyết những khó khăn trước mắt do ngân sách thiếu hụt đồng thời cung cấp một nguồn lợi nhuận phụ thêm cho những tập đoàn tư bản nhận được đơn đặt hàng quân dụng của chính phủ. Nhưng mặt khác, nó lại gây tác dụng phá hoại đối với toàn bộ hệ thống tuần hoàn của chủ nghĩa tư bản Mĩ: đồng đô la. Tình trạng giảm sức mua liên tục của đồng đô la nói lên hậu quả nghiêm trọng của lạm phát mà nguồn gốc sâu xa là chính sách chạy đua vũ trang của giới cầm quyền Mĩ. Nếu lấy sức mua của đồng đô la năm 1939 là 100 thì năm 1946 là 71,2; năm 1947 là 62,2; năm 1950 là 57,8; năm 1954 là 51,7; năm 1960 là 47,3; năm 1964 là 44. Ngày 30-8-1965, trong khi thuyết trình một tiểu ban của quốc hội Mĩ, Mác-tin chủ tịch ngân hàng dự trữ của liên bang Mĩ, đã nói lên nỗi lo lắng của giới tài phiệt Mĩ: “Phải theo dõi cẩn thận xu hướng lạm phát có thể đến với nền kinh tế Mĩ do việc Mĩ tăng cường lực lượng quân sự trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam”. Mác-tin còn nói trong quý I năm nay, và trong quý II khả năng đó tăng thêm”. Đầu tháng 12-1965, Mác-tin tuyên bố với các nhà báo rằng: “Hiện thời nạn lạm phát là một sự đe dọa cực kỳ hiện thực”.

Lạm phát cùng với nhu cầu khẩn trương của giới cầm quyền Mĩ về nhiều loại hàng cần cho việc tăng cường chiến tranh xâm lược Việt Nam đã đẩy giá cả hàng hóa lên cao. Ngày 28-11-1965, Phaolơ, bộ trưởng bộ tài chính Mĩ thú nhận trước các nhà báo: “Một số dấu hiệu đáng lo ngại đã xuất hiện trong việc tăng giá hàng”. Phaolơ kêu gọi “ngăn ngừa nạn lạm phát đang đe dọa sự phồn vinh của nền kinh tế Mĩ”. Theo hắn thì sau 6 năm tương đối ổn định, giá bán buôn ở nước Mĩ đã tăng thêm 1,3%, còn giá bán lẻ tăng 1,7%. Thật là những con số đầy ý nghĩa khi người ta biết rằng mỗi một phần trăm tăng thêm của chỉ số giá cả bán lẻ ở Mĩ có nghĩa là sức mua của người tiêu thụ bị giảm đi chừng 3 tỉ đô la. Ngày 10-1-1966, tờ Tin tức hàng tuần ở Mĩ viết: “Việc tăng giá hàng đã gieo sự lo sợ về nạn lạm phát vào một nền kinh tế lành mạnh, mặc dầu bản thân việc tăng giá hàng có thể dẫn đến hậu quả lạm phát”. Ngày 17-1-1966, tờ Tin tức Mĩ và thế giới viết: “Giá sinh hoạt tăng lên đã bắt đầu làm nhiều bà nội trợ cáu tiết”.

Để đối phó với nguy cơ lạm phát, ngày 5-12-1965, Ngân hàng dự trữ liên bang Mĩ công bố quyết định bắt đầu từ hôm sau sẽ tăng tỉ suất lãi chiết khấu từ 4% lên 4,5%. Mục đích của việc này  theo Mác-tin “là để đề phòng những tổn thất do lạm phát quá độ mà gánh nặng của hoạt động quân sự ở Việt Nam đưa tới cho nền kinh tế Mĩ”.

Tăng tỉ suất lãi chiết khấu tức là tăng tỉ suất lãi ngân hàng nói chung. Nó có tác dụng thu hút tư bản tiền tệ vào tay ngân hàng, nhờ đó mà giảm bớt được khối lượng tiền tệ lưu thông. Nhưng mặt khác, nó lại thu hẹp bớt việc vay vốn để đầu tư vào kinh doanh công thương nghiệp. Tỉ suất lợi tức tăng lên còn làm cho tỉ suất lợi nhuận giảm đi một cách tương ứng. Điều đó giải thích vì sao, chỉ trong một giờ đầu sau khi công bố quyết định tăng tỉ suất lãi chiết khấu, người ta tung ra 3.940.000 cổ phiếu ra bán ở thị trường Nữu ước và sau đó giá cổ phiếu đã sụt xuống. Nếu chủ trương tăng tỉ suất lãi chiết khấu phản ánh ý đồ của bọn trùm ngân hàng Mĩ – bọn này cố tìm cách cứu vớt đồng đô la trước nguy cơ lạm phát – thì nó lại là một đòn đả kích vào quyền lợi của bọn tư bản công nghiệp, do chỗ nó làm giảm tỉ suất lợi nhuận và thu hẹp tín dụng. Chính vì vậy mà chủ trương này dã gây ra một tình trạng lục đục thật sự trong nội bộ bọn tư bản độc quyền Mĩ và đại biểu nhà nước của chúng. Ngay sau khi nhận được tin về quyết định của Ngân hàng dự trữ liên bang (cơ quan này là tổ chức liên hiệp của bọn trùm ngân hàng có đại biểu của chính phủ Mĩ tham gia), tổng thống Mĩ liền công khai than phiền rằng hắn “rất lấy làm tiếc” về quyết định đó. Và hắn đã triệu ngay Mác-tin, chủ tịch của ngân hàng này, đến tranh luận về quyết định đó. Kết quả cuộc tranh luận, như Giôn-xơn tuyên bố, là chẳng ai buộc được ai thay đổi ý kiến. Giôn-xơn thì chủ trương mở rộng tín dụng để duy trì tình trạng phồn vinh một cách giả tạo. Còn Mác-tin thì có đầy đủ lý lẽ để chứng minh rằng “nạn lạm phát rất là hiện thực” vì vậy cần phải “co hẹp tín dụng một cách thích đáng để tránh bước lên vết xe cũ hồi năm 1929, tránh cuộc khủng hoảng sản xuất thừa nổ ra với cuộc khủng hoảng tiền tệ, làm cho đồng đô la bị sụp đổ”. Ngày 13-12-1965, Mác-tin lại bị Uỷ ban kinh tế của Thượng nghị viện gọi ra chất vấn. Chủ tịch ủy ban này buộc tội ngân hàng dự trữ Liên bàng là “không phối hợp với các bộ trong chính phủ và miệt thị tổng thống, miệt thị quốc hội, miệt thị cả pháp luật nữa”. Bộ trưởng tài chính Mĩ thì công kích chủ trương này là “quá sớm và không khôn ngoan”. Bộ trưởng lao động thì tuyên bố “không thể tha thứ được quan điểm tăng tỉ suất lãi cho kinh tế Mĩ chững lại”. Toàn bộ giới cầm quyền Mĩ đều lao vào một cuộc cãi vã bất phân thắng phụ. Thật vậy, làm sao bọn tư bản độc quyền Mĩ và các đại biểu nhà nước của chúng có thể gỡ được mớ bòng bong này: không lạm phát và mở rộng tín dụng một cách liều mạng thì không giải quyết được nạn thiếu hụt của ngân sách quân sự, không mở rộng được sản xuất chiến tranh để thu lợi nhuận cao, mà lao vào con đường đó thì tức là lao xuống vực thẳm!

Cứ để cho giới cầm quyền Mĩ tiến hành lạm phát và mở rộng sản xuất chiến tranh một cách cuồng nhiệt! Điều đó thuộc ý chí của chúng. Nhưng hậu quả của những hành động này chỉ tùy thuộc ở những luật kinh tế có sức mạnh của những lực lượng tự nhiên.

Việc tăng tỉ suất lãi chiết khấu không những gây phản ứng dữ dội trong các tập đoàn tư bản Mĩ mà còn gây phản ứng dữ dội trong các tập đoàn tư bản các nước có quan hệ về tài chính và kinh tế với Mĩ. Sở dĩ như vậy là vì nó có tác dụng hút tư bản tiền tệ các nước này vào đất Mĩ, thu hẹp việc vay nợ Mĩ. Tờ Tấm gương hàng ngày ở Anh ngày 6-12-1965 viết: “Với việc tăng tỉ suất lãi chiết khấu, Mĩ đã làm cho đời sống của người Anh thêm khó khăn chật vật. Việc tăng tỉ suất của thứ lãi có tính chất mấu chốt này sẽ hoạt động như một nam châm hút tiền tệ quốc tế vượt đại dương sang Mĩ”. Theo hãng thông tấn Ky-ô-đô (Nhật) thì giới cầm quyền Nhật bản than phiền rằng biện pháp của Mĩ sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế Nhật vì từ lâu Nhật vẫn là kẻ vay vốn của Mĩ, sẽ gây thêm việc khó khăn cho việc xuất khẩu của Nhật sang Mĩ, ảnh hưởng xấu đến việc Nhật vay vốn của Mĩ, lại có thể làm cho vốn của Nhật chạy sang Mĩ nữa. Tất nhiên, các nước “đồng minh” của Mĩ không tự hạn chế trong việc thốt ra những lời phàn nàn trách móc. Họ đã đối phó với Mĩ một cách mau lẹ: chỉ trong vòng một hai hôm sau khi Mĩ công bố quyết định nói trên, Nhật cũng công bố quyết định tăng tỉ suất lãi chiết khấu từ 7% lên 7,25%, Ca-na-đa công bố quyết định tăng từ 4,25% lên 4,75%, còn Anh thì tuyên bố phải nghiên cứu lại chủ trương trước đây hạ tỉ suất lãi chiết khấu từ 6% xuống còn 5,5%. Những phản ứng dây chuyền trong lĩnh vực tài chính và kinh tế bắt nguồn từ việc Mĩ dốc tiền của vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam sẽ còn dẫn bọn tư bản độc quyền Mĩ và “đồng minh” của chúng đi đến đâu nữa? Đó là điều chưa thể lường hết được. Nhưng chắc chắn rằng những giải pháp của chúng đều không phải là những “lối ra”.

Ngoài nguyên nhân lạm phát là nguyên nhân trong nước, sự lung lay của đồng đô la còn gắn liền với sự thiếu hụt trong cán cân thu chi quốc tế của Mĩ. Người ta biết rằng đế quốc Mĩ đã từng dựa vào nền sản xuất phát triển của chúng đồng thời dùng nhiều thủ đoạn “trịch thượng”, “bắt nạt” đối với các nước nhược tiểu và ngay cả đối với các nước đế quốc đồng minh của chúng để tăng xuất khẩu sang các nước này, đồng thời hạn chế nhập khẩu của các nước này vào đất Mĩ, nhờ đó mà luôn luôn dành được một khoản xuất siêu khá lớn khoảng trên dưới 5 tỉ đô la mỗi năm (có năm tới 9-10 tỷ), kể từ những năm đại chiến thứ hai lại đây. Nhưng, mặt khác để thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới, hàng năm đế quốc Mĩ phải chi ở nước ngoài một số tiền rất lớn, chủ yếu là vào 3 khoản sau đây: đầu tư ra nước ngoài (năm 1963: 4 tỉ đô la; năm 1964: 6 tỉ đô la), “viện trợ” cho nước ngoài (năm 1963: 3,8 tỉ đô la, năm 1964: 3,7 tỉ đô la), và chi phí quân sự ở nước ngoài (mỗi năm trên 2 tỉ đô la) nhằm duy trì mấy ngàn căn cứ quân sự của Mĩ và mấy chục vạn quân đội Mĩ đóng rải rác khắp thế giới. Kết quả là không những khoản xuất siêu kia bị tiêu tan mà hàng năm Mĩ còn hụt thêm mấy tỉ đô la nữa trong cán cân thu chi quốc tế. Từ năm 1951 đến năm 1957, bình quân mỗi năm Mĩ hụt 1 tỉ đô la. Còn các năm sau: 1958 hụt 3,5 tỉ đô la, 1959: 3,8 tỉ, 1960: 3,8 tỉ, 1961: 2,4 tỉ, 1962: 3,6 tỉ, 1963: 3,3 tỉ, 1964: 3,1 tỉ. Năm 1965, nhờ một số biện pháp cưỡng chế của chính quyền Giôn-xơn như bắt các ngân hàng và công ty công nghiệp Mĩ hạn chế cho nước ngoài vay mượn và hạn chế đầu tư ngắn hạn ra nước ngoài nên mặc dù chi tiêu ở nước ngoài tăng lên, chủ yếu là chi cho cuộc chiến tranh leo thang ở Việt Nam, số thiếu hụt của Mĩ trong cán cân thu chi quốc tế vẫn được thu hẹp lại, còn 1,5 tỉ đô la. Tuy nhiên, những biện pháp cưỡng chế trái với bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền Mĩ nói trên làm sao có thể duy trì được lâu dài! Chủ nghĩa tư bản độc quyền Mĩ là một con đỉa khổng lồ, sống và phình trướng lên nhờ hút máu của nhân dân khắp thế giới. Hàng năm, số máu mà nó hút được qua việc xuất khẩu tư bản lên tới 3-4 tỉ đô la (năm 1963: 3,3 tỉ, năm 1964: 3,9 tỉ). Hạn chế xuất khẩu tư bản có nghĩa là cắt bớt cái vòi của nó, hạn chế sự sinh tồn của nó. Liệu chính quyền Giôn-xơn có dám tiếp tục chính sách đó không, và có tiếp tục nổi hay không?

Cũng với mục đích giảm bớt số thiếu hụt trong cán cân thu chi quốc tế, chính quyền Giôn-xơn đã phải dùng đến những biện pháp hạn chế ngặt nghèo như bắt các sứ quán Mĩ chỉ được uống rượu Mĩ mà không được uống rượu nước ngoài, dân Mĩ đi du lịch nước ngoài về không được mang theo người quá một lít rượu mùi và không được mua về theo người quá 50 đô la hàng hóa nước ngoài. Rõ ràng tình trạng căng thẳng trong cán cân thu chi quốc tế và hậu quả của nó là sự lung lay của đồng đô la đã làm cho các ngài tỉ phú Mĩ trở thành bủn xỉn, ti tiện.

Do kết quả của cả một quá trình dài thiếu hụt trong cán cân thu chi quốc tế, dự trữ vàng của Mĩ cứ liên tục tuồn ra khỏi nước Mĩ. Người ta biết rằng nhờ trục lợi trong đại chiến thứ hai, chủ yếu là qua việc bán vũ khí và hàng quân dụng trong thời gian chiến tranh và bán thiết bị trong mấy năm đầu sau chiến tranh, Mĩ đã vét hầu hết được các nguồn dự trữ vàng của các nước đồng minh của Mĩ, đưa khối lượng dự trữ vàng của Mĩ từ 11.258 triệu đô la năm 1936 lên 24.563 triệu năm 1949, bằng 3/4 tổng số vàng dự trữ của thế giới tư bản. Nhưng từ năm 1950 trở đi, do chi tiêu nhiều trong cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên và sau đó tiếp tục duy trì ngân sách quân sự ở một mức rất cao, mặt khác lại do sự so sánh về thực lực kinh tế giữa Mĩ và các nước đế quốc khác ngày càng thay đổi bất lợi cho Mĩ, cho nên bệnh “chảy máu vàng” của Mĩ bắt đầu và ngày càng trầm trọng. Nếu dự trữ vàng của Mĩ năm 1950 là 22.819 triệu đô la thì năm 1954 là 21.793 triệu, năm 1960 là 17.804 triệu, năm 1964 là 15.389 triệu, và ngày 30-12-1965 là 13.735 triệu. Như vậy là: trong năm 1965, Mĩ đã mất 1.654 triệu đô la vàng dự trữ, gấp 13 lần so với số bị mất trong năm 1964. Theo báo cáo của ngân hàng dự trữ liên bang Mĩ thì số vàng này chủ yếu rơi vào tay các nước “đồng minh” của Mĩ ở Tây Âu, đứng đầu là Pháp. Các nước này đem đô la mà họ nắm giữ bắt Mĩ phải đổi ra vàng rồi chuyển ra khỏi nước Mĩ.

Việc chuyển vàng ồ ạt ra khỏi nước Mĩ được coi là một sự kiện lạ trong lịch sử nước Mĩ. Trước đây, khi ngân hàng trung ương các nước ngoài yêu cầu Mĩ đổi đô la ra vàng thì thường họ lại đem số vàng đó gửi tại Ngân hàng dự trữ liên bang của Mĩ. Họ không chuyển số vàng đó ra khỏi nước Mĩ, bề ngoài là vì lý do tốn kém (1 triệu đô la = 888,68 ki-lô-gam vàng, tức là gần 1 tấn) lại không bảo đảm trong khi vận chuyển, nhưng thực sự vì bọn tư bản quốc tế coi Mĩ là “đất thánh” của chúng, ở đó vừa không sợ cách mạng nổi dậy lại vừa vững vàng về kinh tế. Thái độ đó còn phản ánh cả sự kính nể của của các chính phủ nước ngoài đối với Mĩ khi Mĩ đang còn nghênh ngang trên ngôi bá chủ. Nhưng, như nhà kinh tế học Mĩ Vich-to Péc-lô đã viết, “ngày nay, lòng tin vào sự vững vàng của nền tài chính Mĩ cũng như lòng trung thành của các quốc gia trước đây phụ thuộc vào Mĩ đã lung lay. Phần lớn số vàng không phụ thuộc sở hữu của Mĩ đã được đưa ra khỏi nước Mĩ, mặc dù số tạm thời còn để lại ở Mĩ và thuộc sở hữu của các nước khác vẫn tới trên 13 tỉ đô la. Như vậy là dự trữ vàng mà nước Mĩ đang giữ gần vừa vặn ngang với số dự trữ vàng của các nước khác gửi ở Mĩ” (Tạp chí Sinh hoạt quốc tế, Liên Xô, tháng 12-1965).

Thực ra số vàng mà các nước ngoài gửi ở Mĩ còn lớn hơn gấp đôi con số 13 tỉ nói trên. Con số này chẳng qua chỉ là số đô la mà chính phủ các nước ngoài hiện nắm trong tay. Ngoài số đó ra, còn phải kể tới hơn 10 tỉ đô la nằm trong tay tư nhân ở các nước ngoài. Họ cũng có thể thông qua chính phủ của họ mà bắt Mĩ đổi thành vàng (theo chế độ tiền tệ quốc tế hiện nay do Mĩ khống chế thì Mĩ chỉ chịu trách nhiệm đổi đô la ra vàng cho chính phủ các nước, còn tư nhân muốn đổi thì phải qua chính phủ nước họ). Nếu kể cả mấy tỉ đô la mà Mĩ nợ các tổ chức tài chính quốc tế thì tổng số đô la mà Mĩ phải thanh toán bằng vàng lên tới 28 tỉ.

Theo pháp luật nước Mĩ thì số vàng dự trữ tối thiểu phải có để đảm bảo cho việc phát hành tiền giấy trong nước là 8,6 tỉ đô la. Như vậy, trừ số vàng này đi, Mĩ chỉ còn chi phối được 5,1 tỉ đô la dự trữ vàng để đối phó với 28 tỉ đô la lúc nào cũng có thể bắt Mĩ phải đổi thành vàng.

Sự oái oăm của lịch sử lại chính là ở chỗ: đúng giữa lúc Mĩ phải tung rất nhiều đô la ra nước ngoài vì cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, và giữa lúc địa vị đồng đô la nguy ngập nhất thì các “đồng minh” của Mĩ ở Tây Âu, chủ yếu là Pháp và Tây Đức, lại đưa mũi dao của họ vào thẳng mạch máu của Mĩ, gây ra những đợt chảy máu vàng ghê sợ nhất trong lịch sử nước Mĩ.

Công bằng mà nói thì tình trạng bi đát nói trên của đồng đô la chẳng phải do Pháp hay Tây Đức xấu chơi gì mà gây ra. Đó chẳng qua là hậu quả tất nhiên của cả một quá trình dài Mĩ vi phạm những quy luật và quy tắc cơ bản của sự giao dịch quốc tế hay là hậu quả của cái lối ỷ thế đè người của Mĩ. Ai cũng biết rằng nền sản xuất hàng hóa đến độ phát triển đã tách từ trong đống hàng hóa ra một thứ hàng hóa đặc biệt, đưa nó lên địa vị “hàng hóa chúa tể”: chỉ có nó mới là hiện thân của lao động xã hội. Thứ hàng hóa đó là vàng. Đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế thì địa vị độc tôn của vàng lại càng nổi bật không một hàng hóa nào, không một ký hiệu nào thay thế nó được. Nước nào thiếu hụt trong cán cân thu chi quốc tế thì chỉ có việc xuất dự trữ vàng của mình ra mà thanh toán. Quy luật và quy tắc của nền sản xuất hàng hóa trong phạm vi thế giới là như vậy. Nhưng riêng Mĩ thì lại tự giành cho mình cái quyền không tuân theo. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ trở thành kho vàng đồng thời là kho hàng hóa thiết bị của thế giới tư bản. Dựa vào ưu thế đó, Mĩ ép buộc các nước khác phải nhận đồng đô la Mĩ như là một thứ tiền tệ thế giới – một thứ phương tiện thanh toán thế giới và phương tiện tích trữ thế giới – hệt như vàng vậy. Điều đó có nghĩa là: các nước có thể không cần dự trữ vàng mà chỉ cần giữ đô la (tiền giấy) cũng đủ, trong quan hệ với các nước nếu Mĩ thiếu hụt thì Mĩ không cần thanh toán bằng vàng, chỉ thanh toán bằng đô la cũng đủ. Lúc đó, các nước tư bản đều phụ thuộc vào Mĩ, kiêng nể Mĩ, lại rất đỗi tin tưởng ở sức mạnh kinh tế của Mĩ và ở sự vững vàng của đồng đô la. Vì vậy, người ta chấp nhận địa vị độc tôn của đồng đô la một cách vừa vui vẻ, vừa miễn cưỡng.

Chính là nhờ ở địa vị ấy  một địa vị mà theo quy luật của nền sản xuất hàng hóa, chỉ có vàng mới đóng được  mà suốt bao nhiêu năm nay thiếu hụt trong cán cân thu chi quốc tế, Mĩ chỉ cần in tiền giấy ra trao cho các nước. Số vàng mà các nước đòi Mĩ phải thanh toán chỉ chiếm một bộ phận nhỏ (theo Đét-xtanh, Bộ trưởng Bộ tài chính Pháp, thì từ năm 1951 đến năm 1963, tổng số thiếu hụt của Mĩ lên tới 25 tỉ đô la, nhưng chỉ có 7,5 tỉ đô la Mĩ phải xuất vàng ra thanh toán). Cứ như thế, đồng đô la chảy vào các kho dự trữ của các nước, song song với sự lớn mạnh về kinh tế của Mĩ. Việc phát hành đô la ở đây khác hẳn trường hợp trong nước Mĩ. Ở trong nước Mĩ, nếu chính phủ in tiền giấy ra để trả nợ cho nhân dân thì một mặt nó thanh toán được nợ, nhưng mặt khác nó lại gây ra lạm phát. Còn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, nếu Mĩ dùng tiền giấy thì nó không gây ra lạm phát (vì hàm lượng vàng của đồng đô la đã được Mĩ bảo đảm), nhưng nợ thì nó lại chẳng thanh toán được một xu nhỏ nào. Số nợ của Mĩ đối với nước ngoài chỉ được tích lại dưới hình thức đô la mà Mĩ phải đổi ra vàng bất cứ khi nào chính phủ nước ngoài yêu cầu. Khi Mĩ còn khống chế được các chính phủ này thì họ còn cam chịu cái bể chứa đô la cho Mĩ. Nhưng khi mà các bể chứa đều đã đầy ứ lên, khi mà bệnh khát đô la đã nhường chỗ cho bệnh trướng bụng vì đô la thì tình thế ắt phải xoay chuyển: sự nhẫn nhục chuyển hóa thành sự bướng bỉnh. Lúc đó, mọi thứ hào quang mà đồng đô la mượn của vàng đều tự nó tan biến hết, còn vàng thì tỏa ánh sáng rực rỡ hơn bao giờ hết. Để dự trữ, để làm phương tiện tích trữ, người ta cần đến những thỏi vàng, những tấn vàng, chứ không phải những thần tượng của vàng do các nhà in ở Nữu ước tuôn ra. Cái thế tất phải xảy ra thì đã xảy ra như vậy. Quyền lực của sự vật đã thắng quyền lực của chủ nghĩa tư bản độc quyền Mĩ như vậy.

Từ các thủ đô của châu Âu cổ kính, tình yêu vàng bấy lâu ấp ủ đã tạo nên cả một đội quân đáng sợ bao gồm từ ngài bộ trưởng ranh mãnh đến các vị tổng thống đường bệ. Cuộc “chiến tranh tiền tệ” bắt đầu. Những luồng vận chuyển của vàng và đồng đô la qua Đại Tây dương nhộn nhịp hẳn lên. Và ngày 4-2-1965, “con gà trống Gô-loa” gióng lên tiếng gáy thách thức của nó: Tổng thống Đờ-gôn tuyên bố cần phải khôi phục lại chế độ lấy vàng làm bản vị. Điều đó có nghĩa là: địa vị độc-đặc quyền của đồng đô la phải bị bãi bỏ, Mĩ phải trao trả kho vàng cho các nước, Mĩ phải thanh toán số thiếu hụt với các nước bằng vàng! Mĩ lấy đâu ra vàng để làm những việc đó? Và như vậy thì địa vị của đồng đô la và địa vị của đế quốc Mĩ sẽ ra sao?

Chính giữa lúc mà sự sụp đổ của đồng đô la đã và đang ở ngay trước mắt thì bọn đế quốc hiếu chiến Mĩ lại phải tung hàng chục tỉ đô la vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đứng giữa hai gọng kìm là lạm phát ở trong nước và “chảy máu vàng” ở ngoài nước, liệu đế quốc Mĩ có dám “leo thang đến cùng” trong cuộc chiến tranh hao người tốn của này không? Trước đây khi đồng đô la chiếm địa vị đặc quyền thì sự thiếu hụt trong cán cân thu chi quốc tế chưa làm Mĩ lo sợ. Nhưng nay thì khác, đối phó với những khoản thiếu hụt tích lại từ trước đến nay đã làm cho Mĩ phát sốt. Tiếp tục leo thang trong cụôc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì số thiếu hụt càng tăng lên một cách kinh khủng. Chỉ một năm qua chủ nghĩa đế quốc Mĩ đã mất một ngàn rưởi tấn vàng. Tiếp tục “leo thang” cao hơn nữa thì cái cơ thể thiếu máu kia sẽ còn chảy mất bao nhiêu máu nữa? Và địa vị quốc tế của đồng đô la sẽ phải tụt xuống bao nhiêu nấc thang nữa?

Chúng ta không phủ nhận khả năng sau đây: đế quốc Mĩ sẽ còn huy động được hàng chục tỉ đô la để ném vào cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam. Chúng sẽ dùng mọi thủ đoạn để bóp nặn nhân dân Mĩ và nhân dân thế giới. Nhưng, hiển nhiên khả năng tài chính của chúng không phải là vô hạn. Và nếu chúng có cóp nhặt được tiền của ở mặt trận này thì chúng lại tích lũy khó khăn và thất bại ở những mặt trận khác. Chính những mâu thuẫn không có lối ra đó sẽ trói chân trói tay chúng lại và làm cho nước đế quốc giàu nhất thế giới kia trở thành một lực lượng có hạn.

Chỉ có quyết tâm của cả một dân tộc không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ cho bọn xâm lược và những nguồn nhân vật tài lực vận động trong lòng dân tộc đó mới là không có giới hạn.

Đế quốc Mĩ có khả năng giải quyết vấn đề hậu cần như thế nào để theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược nước ta?

Ở trên, chúng ta đã nghiên cứu khả năng huy động tài chính của đế quốc Mĩ. Để huy động được một nguồn tài chính trị giá hàng chục tỉ đô la ném vào cuộc chiến tranh phi nghĩa, đế quốc Mĩ đã và đang phải trả bằng một giá đắt hơn nhiều. Đó là những hậu quả tai hại đối với chúng, về mặt tài chính, tiền tệ, kinh tế cũng như về chính trị ở trong nước cũng như trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, có được một nguồn tài chính to lớn vẫn chưa có nghĩa là có được một lực lượng vật chất hùng hậu dùng cho chiến tranh. Muốn thế ít nhất phải có hai điều kiện nữa: một là có khả năng sản xuất ra những phương tiện vật chất cần thiết cho chiến tranh, và hai là có khả năng vận chuyển những phương tiện vật chất ấy đến chiến trường. Chúng ta hãy lần lượt xem xét hai loại khả năng này của đế quốc Mĩ.

Về khả năng thứ nhất, Giôn-xơn huênh hoang tuyên bố trong bản báo cáo kinh tế của hắn trước quốc hội Mĩ ngày 27-1-1966 như sau: “Hậu quả kinh tế của cuộc chiến tranh ở Việt Nam không đặt cho những nguồn của cải của chúng ta một gánh nặng nào không thể chịu đựng nổi… Phần sản phẩm dành cho vấn đề Việt Nam chỉ chiếm chưa đầy 1,5% tổng sản phẩm xã hội của chúng ta”. Theo Giôn-xơn, tổng sản phẩm xã hội của Mĩ năm 1965 đạt 675 tỉ đô la, trong khi chi phí cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam chưa đầy 10 tỉ. Như vậy, thì cuộc chiến tranh ở Việt Nam bất quá chỉ bằng một cái móng tay của con người khổng lồ mà thôi!

Khốn thay, sự thật lại không đơn giản như con số tỉ lệ và cả phương pháp luận của ngài tổng thống Mĩ! Trước hết cần phải chỉ ra rằng ngài tổng thống đã làm trò ảo thuật bằng một con số một cách rất vụng về. Số chi phí thật sự cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trong năm 1965 không phải là 10 tỉ đô la mà ít ra cũng là 15,8 tỉ như chủ tịch Ủy ban đối ngoại của thượng nghị viện Mĩ đã tiết lộ. Con số đó lại không thể đem so với tổng sản phẩm xã hội của nước Mĩ vì một lẽ rất đơn giản là không ai có quyền chi tiêu bộ phận lao động quá khứ bao hàm trong tổng sản phẩm xã hội, nếu người ta không muốn phá hoại ngay cả cái cơ sở của tái sản xuất giản đơn. Nhiều nhất thì người ta cũng chỉ có thể chi tiêu trong phạm vi tổng số thu nhập quốc dân, mà số này, theo Giôn-xơn là 550 tỷ đô la cho năm 1965. Như vậy nếu so với toàn bộ thu nhập quốc dân của nước Mĩ thì khoản chi phí cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam chiếm tỉ lệ 3%  một con số lớn gấp đôi con số của Giôn-xơn, mặc dầu vẫn còn dưới sự thật rất xa. Tuy nhiên, ngay cả con số này nữa vẫn chưa nói được đúng điều đáng nói. Muốn biết cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đặt ra cho những nguồn của cải của nước Mĩ một gánh nặng như thế nào thì người ta phải xem xét toàn diện về mặt tài chính, sau đó lại phải xem xét toàn diện về mặt sản xuất. Về mặt tài chính, chúng ta đã nghiên cứu ở đoạn trên của bài này; ở đây chỉ xin bổ sung một đôi tài liệu mới.

Hãng Roi tơ ngày 15-3-1966 đưa tin: “Đêm nay, Hạ nghị viện đã thông qua với đa số áp đảo yêu cầu của Tổng thống Giôn-xơn xin thêm 13.135 triệu đô la cho ngân sách chi tiêu về những cố gắng chiến tranh ở Việt Nam và để giúp nền kinh tế Việt Nam. Số tiền này sẽ được dùng trong tài khóa này kết thúc ngày 30-6-1966”. Đây là lần thứ hai trong tài khóa 1965-1966, bọn cầm quyền Mĩ phải tăng thêm ngân sách chiến tranh (lần thứ nhất vào tháng 8-1965: 1.700 triệu đô la). Cộng cả hai lần lại ta thấy riêng khoản tăng thêm đã lên tới 14,8 tỉ đô la. Dự án ngân sách quân sự của Mĩ cho tài khóa 1965-1966 là 48 tỉ đô la. Qua hai lần bổ sung trên, nó đã đạt tới 63 tỉ, nhiều hơn cả ngân sách quân sự dự kiến cho tài khóa 1966-1967 (60,5 tỉ). Việc tăng thêm chi tiêu về quân sự do hành động “leo thang chiến tranh” ở Việt Nam đã đưa ngân sách liên bang của Mĩ lên tới con số trên 100 tỉ đô la và làm cho nó thiếu hụt trên dưới 10 tỉ (theo Mayơ, người phát ngôn của Nhà trắng, thì tổng số chi trong tài khóa 1965-1966 sẽ từ 105 đến 107 tỉ, trong khi tổng số thu là 96,5 tỉ   tin AFP ngày 4-1-1966). Để lấp vào lỗ hổng đó, ngày 10-3-1966, quốc hội Mĩ đã thông qua một dự luật tăng thuế do Giôn-xơn yêu cầu. Theo luật này thì chính phủ Mĩ sẽ thu thêm được 6 tỉ đô la thuế nữa. Người ta biết rằng tổng số thuế mà nhân dân Mĩ phải nộp năm 1965 cho chính phủ liên bang và chính phủ các bang đã lên tới 156 tỉ đô la rồi. Nộp thêm 6 tỉ nữa vẫn chưa phải là “một gánh nặng không thể chịu đựng nổi”. Phải chăng đó mới thật là điều mà ngài tổng thống muốn nói?

Đối với nhân dân Mĩ thì việc chi tiêu hàng năm trên 60 tỉ đô la về quân sự không có nghĩa gì khác hơn là đem một khối lượng của cải khổng lồ của họ quẳng xuống biển. Quẳng xuống biển trên 1/10 tổng số thu nhập quốc dân vẫn chưa phải là “một gánh nặng không thể chịu đựng nổi”! Phải chăng đó là tín hiệu thứ hai của ngài tổng thống Mĩ? Và trong gánh nặng nói trên ít nhất là 1/3 (20 tỉ đô la) trực tiếp bắt nguồn từ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Tất nhiên là những người phải mang trên vai cái gánh nặng kia có cách hiểu và cách nói riêng của họ. Tiếng nói ấy đã bắt đầu vang lên khắp nước Mĩ, qua những đợt sóng biểu tình, những cuộc tuyệt thực, đốt thẻ quân dịch v.v… Bản thân sự vật cũng có cách diễn đạt riêng của nó về con số tỉ lệ “1,5%” của Giôn-xơn. Cách diễn đạt ấy, như chúng ta đã biết, là chiều hướng đi lên của chỉ số giá cả, là chiều hướng đi xuống của sức mua của đồng đô la, là con số thiếu hụt của cán cân thu chi quốc tế, là bệnh “chảy máu vàng”… Bấy nhiêu hậu quả mới chỉ là nói trên lĩnh vực tài chính – tiền tệ. Chúng ta hãy xem trên lĩnh vực sản xuất, con số tỉ lệ “1,5%” của Giôn-xơn có ý nghĩa như thế nào.

Mĩ là nước có nền công nghiệp và nông nghiệp rất phát triển, do đó có những khả năng to lớn trong việc cung cấp phương tiện vật chất cho chiến tranh, điều đó ai cũng rõ. Đặc biệt là ngành sản xuất quân sự của Mĩ lại rất phát triển, kể từ những năm chiến tranh thế giới thứ hai. Trong cuộc chiến tranh này, bọn tư bản độc quyền Mĩ đã trở thành tên lái súng quốc tế, chúng thông qua việc cung cấp vũ khí và phương tiện chiến tranh cho cả hai bên tham chiến để làm giàu. Sau khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, bằng việc thực hành chính sách chạy đua vũ trang, ráo riết chuẩn bị chiến tranh thế giới mới, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước Mĩ chuẩn bị duy trì và phát triển ngành sản xuất quân sự, coi đó là một nhân tố quan trọng để kích thích sản xuất và đảm bảo lợi nhuận cao cho các công ti tư bản độc quyền. Trong những năm gần đây riêng ngành sản xuất này sử dụng tới 4 triệu công nhân và trên 1/3 tổng số các nhà khoa học và kỹ sư toàn nước Mĩ. Hàng quân sự chiếm tới 1/5 tổng sản lượng công nghiệp hàng năm của Mĩ. Trong một số ngành quan trọng, nó chiếm tỉ lệ rất cao: 70% ngành sản xuất máy bay và phụ tùng máy bay, 61% ngành đóng tàu, 38% ngành sản xuất vô tuyến điện và phương tiện thông tin liên lạc, 10% sản lượng gang thép, 10% sản lượng dầu lửa. Trong 25 năm lại đây (1941-1965) riêng khoản chi phí trực tiếp về quân sự của Mĩ lên tới trên 1.000 tỉ đô la. Điều đó nói lên sự phát triển cao độ của chủ nghĩa quân phiệt Mĩ đồng thời nói lên sự phát triển cao độ của ngành sản xuất quân sự của Mĩ. Bọn tư bản độc quyền Mĩ còn lấy việc xuất khẩu vũ khí làm một nguồn lợi nhuận quan trọng. Chỉ trong 5 năm lại đây (1961-1965), số vũ khí xuất khẩu của Mĩ đã đạt tới 7 tỉ đô la. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước Mĩ trong khi theo đuổi chính sách gây chiến của chúng đồng thời sử dụng ngân sách Nhà nước để kích thích sản xuất, đã tích trữ một kho hàng chiến lược quan trọng. Tính đến giữa năm 1965, kho dự trữ này đã đạt tới 8,2 tỉ đô la, gồm gần 100 mặt hàng chiến lược, trong đó nhôm đạt 1,7 triệu tấn, đồng: 90 vạn tấn, kền: 20 vạn tấn, chì: 1,2 triệu tấn, kẽm: 1,2 triệu tấn, thiếc: 30 vạn tấn, cao su thiên nhiên: 80 vạn tấn.

Xem vậy thì thấy việc đáp ứng những nhu cầu vật chất của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam không phải là điều mà nền sản xuất Mĩ không bảo đảm được, ít nhất là về cơ bản và trong thời gian trước mắt. Khó khăn của nó là ở chỗ khác.

Thật là sai lầm nếu chỉ nhìn vào năng lực sản xuất để đánh giá một nền kinh tế nào đó là mạnh hay yếu. Nền kinh tế của một nước tư bản chủ nghĩa phát triển, chẳng hạn như nước Mĩ, nếu xét về mặt năng lực sản xuất thì rất mạnh. Tuy vậy nó vẫn là một nền kinh tế ốm yếu, bệnh hoạn, giống như một cơ thể khổng lồ mà mang bệnh ung thư. Chứng bệnh này đến độ phát triển nào đó có thể làm cho cái cơ thể khổng lồ kia phải rã rời, tê liệt. Chính cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đang làm cho những ung thư của nền kinh tế Mĩ ngày càng phát triển đến độ nguy kịch, đi đôi với việc làm cho cơ thể kinh tế đó phát phì lên hơn nữa.

Sau cuộc khủng hoảng năm 1960, nền kinh tế Mĩ bước vào thời kỳ hưng thịnh. Sự hưng thịnh này có quan hệ chặt chẽ với chính sách tăng cường chi tiêu quân sự của chính phủ Mĩ và chính sách bán chịu hàng cho người tiêu thụ. Những biện pháp này tuy tạm thời có tác dụng kích thích sản xuất, nhưng không sao giải quyết nổi mâu thuẫn cố hữu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa khuynh hướng mở rộng sản xuất một cách vô hạn độ của chủ nghĩa tư bản và sức mua bị giới hạn của người tiêu thụ. Việc tăng cường bóc lột nhân dân để ném tiền của vào ngân sách quân sự càng làm cho sức mua của nhân dân bị thu hẹp. Việc bán chịu hàng cũng mất dần tác dụng mở rộng sức mua của nó, khi mà số nợ phải thanh toán hàng năm xấp xỉ bằng số nợ được vay thêm. Vì vậy những triệu chứng của một cuộc khủng hoảng kinh tế mới ngày càng lộ rõ. Tháng 6 năm 1964, tờ Nhật báo phố Uôn đã rung lên hồi chuông báo động: “Những chính sách kinh tế mà Mĩ đang thi hành hiện nay sẽ có thể chấm dứt vào năm 1965 như bong bóng xà phòng và có thể mang theo một sự sụp đổ về kinh tế còn tệ hại hơn cả hồi năm 1929 ở nước Mĩ”.

Nửa cuối năm 1964 và những tháng đầu năm 1965 trôi đi trong không khí nặng trĩu lo âu của giới kinh doanh Mĩ. Nhưng rồi việc đưa quân đội viễn chinh Mĩ ồ ạt vào miền Nam Việt Nam, tiếp theo sau là việc liên tục tăng ngân sách quân sự của chính phủ Mĩ đã mau chóng xua tan những bóng mây đen trên bầu trời của họ. “Giới kinh doanh trông cậy nhiều vào việc tăng cường mạnh mẽ tiềm lực chiến tranh. Tạp chí Thời vận hồi mùa xuân và giữa mùa hạ năm nay tỏ ra bi quan về tiền đồ của nền kinh tế báo tin rằng trong vòng 9 tháng tới, chi phí quân sự sẽ tăng thêm 5 tỉ đô la, và điều đó làm cho mọi tâm trạng bi quan của nó tan biến hết.” (Vích-to Péc-lô).

Ngay từ tháng 2-1965, viên tham tán thương mại Pháp ở Hoa-thịnh-đốn đã phản ánh tình hình ở Mĩ như sau: “Những sự lo lắng hồi đầu năm về triển vọng đình đốn của nền kinh tế đã không còn cơ sở nữa, và hiện nay, nhiều nhà kinh tế khẳng định rằng kinh tế Mĩ sẽ tiếp tục phát triển suốt cả 6 tháng đầu năm 1966, mặc dù một số nhà quan sát có nói đến nguy cơ xảy ra lạm phát do sự tiến triển của tình hình gần đây sinh ra và khiến cho việc sử dụng những “nhân tố kích thích” để duy trì sự phát triển đó trong năm tới sẽ mất dần tác dụng”. (Tạp chí Pháp Tài liệu nhanh, số ra ngày 17-2-1965).

Trong một bài nhan đề “Phố Uôn đang nếm những mùi vị của thời chiến”, tờ Thời báo chủ nhật (Anh) ngày 28-11-1965 nêu rõ: “Từ tháng 7-1965 đến nay, khi tổng thống Mĩ vạch ra kế hoạch đẩy mạnh chiến tranh ở Đông Nam Á, hầu hết các nhà đầu tư đều coi đó là một động cơ thúc đẩy nền kinh tế trong năm 1966”.

Tim đen của giai cấp đại tư sản Mĩ được bộc lộ trắng trợn qua những lời lẽ sau đây: “Càng nhiều đại bác thì càng nhiều phồn vinh” (Tin tức Mĩ và thế giới, ngày 16-8-1965) và chính sách leo thang của Mĩ ở Việt Nam làm cho người ta có những dự đoán mới đối với tiền đồ phát triển kinh tế” (Người hướng dẫn khoa học Thiên chúa giáo, ngày 9-8-1965).

Cứ mỗi lần ngửi thấy mùi xác chết ở chiến trường thì tư bản Mĩ lại tỉnh táo, hoạt bát hẳn lên. Lần này cũng vậy nó hy vọng dựa vào ngân sách quân sự khổng lồ để lẩn tránh một cuộc khủng hoảng kinh tế đang ngấp nghé ngoài cửa. Hàng chục tỉ đô la chi phí quân sự quả là những “đòn bẩy mạnh mẽ” đối với nền kinh tế đang khao khát đơn đặt hàng.

Giá trị trung bình hàng tháng của các đơn đặt hàng quân sự đã tăng lên như sau:

– 1961: 1.828 triệu đô la

– 1964: 2.260 triệu đô la

– 10 tháng đầu năm 1965: 2.773 triệu đô la

– Riêng tháng 9 và tháng 10-1965: 3.378 triệu đô la.

Việc tăng thêm đơn đặt hàng quân sự đã khiến cho “các sĩ quan hậu cần của Lầu năm góc phải làm thêm giờ để lập ra bản danh sách mua hàng đồ sộ” (Nhật báo phố Uôn, ngày 4-8-1965).

Chắc chắn rằng con số 13,1 tỉ đô la mà quốc hội Mĩ mới chi thêm cho tài khóa 1965 – 1966 và 10,3 tỉ đô la cho tài khóa 1966-1967 còn làm cho giá trị của đơn đặt hàng tăng vọt lên. Phần lớn số tiền 13,1 tỷ nói trên, theo Giôn-xơn sẽ dùng để mua 2.000 máy bay trực thăng, 900 máy bay chiến đấu, gần 5.000 tên lửa các loại; 4 tỉ sẽ tiêu ngay để mua đạn dược (Tin AFP ngày 19-1-1966). Và Giôn-xơn đã ký sắc lệnh chi luôn 4,8 tỉ đô la ngay sau khi quốc hội Mĩ thông qua dự án chi thêm này.

Tờ tuần báo Tin tức Mĩ và thế giới số ra ngày 21-2-1966 đã dẫn ra những số liệu của Bộ Quốc phòng Mĩ cho biết: trong 6 tháng đầu năm nay, đơn đặt hàng của quân đội Mĩ lên đến gần 20 tỉ đô la, tức là tăng hơn 70% so với 6 tháng đầu năm 1965. Đó là chưa kể hàng tỉ đô la đặt hàng về lương thực, quần áo, dầu lửa và các loại thiết bị cần thiết cho việc tăng cường lực lượng quân sự. Cũng theo báo này, những hợp đồng về các công trình quân sự xây dựng ở Việt Nam, cũng tăng khoảng 1 tỉ rưỡi đô la, tức là tăng gần 80% so với 6 tháng đầu năm 1965.

Việc tăng cường chiến tranh xâm lược Việt Nam và tăng thêm chi phí quân sự đã đẩy giá cổ phiếu của các xí nghiệp sản xuất hàng quân dụng lên hàng đầu. Tốc độ phát triển sản xuất của những xí nghiệp này cũng đạt mức cao nhất. Không khí náo nhiệt của công nghiệp Mĩ đã được một tờ báo Mĩ miêu tả như sau:

“Trong khi thế giới chờ đợi xem tổng thống Giôn-xơn tuyên bố ông sẽ có kế hoạch gì ở Nam Việt Nam thì giới công nghiệp Mĩ đã quay trở lại tình trạng chiến tranh.

“Từ Uýtconxin tới Alabama, những công ty sản xuất đạn dược, máy bay và những nhà máy quốc phòng đang được chuẩn bị để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về những thiết bị quân sự. Một số đã chuyển sang làm việc suốt 24 tiếng đồng hồ, sản xuất những đôi giầy đi rừng và những bộ quân phục màu cỏ úa, những máy bay lên thẳng và những loại chất nổ mạnh. Kể từ cuộc chiến tranh Triều Tiên đến nay, nền công nghiệp sản xuất dụng cụ chiến tranh của Mĩ chưa bao giờ lại bận rộn, tấp nập như thế. Một số đồ trang bị cần gấp đến nỗi Bộ quốc phòng chuyển đơn đặt hàng xuống không phải là bằng bưu điện mà là bằng máy tê-lếch hoặc bằng điện tín… Cuộc chiến tranh rừng rú và việc đẩy mạnh những cuộc oanh tạc vào các mục tiêu của Việt cộng đang làm mất đi những kho dự trữ của Mĩ về đạn dược, rốc két, đạn đại bác và bom. Đạn dược chở tới Nam Việt Nam với tốc độ 25.000 tấn mỗi tháng”. (Thư tín hàng ngày, ngày 28-6-1965).

Tờ tạp chí Pháp Tài liệu nhanh, trong số ra ngày 17-2-1965 cũng nói lên tình hình tương tự. “Tuy hiện nay Tổng thống Mĩ chưa tuyên bố tình trạng khẩn cấp trong toàn nước Mĩ và ra lệnh cho các xí nghiệp phải ưu tiên thực hiện đơn đặt hàng quân sự, nhưng trong nhiều trường hợp, Bộ quốc phòng Mĩ đã ráo riết yêu cầu các xưởng giao hàng gấp trước thời hạn ghi trong hợp đồng hoặc tăng thêm số lượng so với hợp đồng đã ký. Trong giai đoạn này rõ ràng là vấn đề thời hạn giao hàng đã trở thành vấn đề chủ yếu, nó đẩy lùi vấn đề mặc cả về giá xuống hàng thứ yếu. Trong một vài trường hợp, người ta đã mở cửa cho hoạt động trở lại một số xí nghiệp dự trữ đã được giữ gìn từ sau cuộc chiến tranh Triều Tiên đến nay… Nhiều xí nghiệp chế tạo bom đạn đóng cửa từ 10 năm nay đã được phục hồi và tham gia cạnh tranh dữ dội với các xí nghiệp hiện có trong việc đấu thầu… Nhiều xí nghiệp đã sử dụng hết công suất thiết kế và thời hạn giao hàng đối với những đơn đặt hàng dân dụng kéo dài ra một cách kỳ quặc (thường là sau 12 tháng). Người ta cho rằng khối lượng đơn đặt hàng quân sự tất nhiên đã đẩy lùi những đơn đặt hàng dân dụng xuống địa vị thứ yếu…

“Chương trình tái võ trang mới này tạo ra một tâm lý phấn chấn trong nhiều giới kinh doanh và người ta cho rằng một số đơn đặt hàng dân dụng mới đưa gần đây có lẽ là được tăng nhiều hơn là có nhu cầu thực tế trên thị trường”.

Về “tâm lý phấn chấn” này, nhà kinh tế học Mĩ Vích-to Péc-lô viết: “Việc tăng cường mạnh mẽ tiềm lực chiến tranh đã trở thành nhân tố kích thích kinh tế mạnh nhất kể từ tháng hai năm 1965, khi bắt đầu oanh tạc nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Các nhà tư bản Mĩ đã mở rộng chương trình sản xuất của họ để đón trước những đơn đặt hàng quân sự mới và đón trước nhu cầu tăng thêm về hàng tiêu dùng của binh lính và công nhân ngành công nghiệp chiến tranh. Những người tiêu thụ về phía họ thì vội vã mua sắm để đề phòng tình trạng tăng giá hàng và khan hàng”. (Tạp chí Sinh hoạt quốc tế, 12-1965).

Sự náo nhiệt của nền công nghiệp Mĩ đã bắt đầu gây ra tình trạng căng thẳng về một số nguyên liệu và đẩy giá lên cao. “Thị trường đồng hiện đang căng thẳng và giá cả đang lên cao. Chính phủ Mĩ đã kêu gọi các xí nghiệp sản xuất vũ khí lập kho dự trữ riêng của mình và hứa trong trường hợp khẩn cấp hơn sẽ tung lực lượng dự trữ chiến lược ra để ngăn chặn tình trạng khan hiếm quá mức”. (Tạp chí Tài liệu nhanh ngày 17-2-1965). Theo Mắc Namara thì mức yêu cầu hàng năm về mặt quốc phòng là 25 vạn tấn đồng và sang năm 1966, mức đó sẽ tăng 100% vì cuộc chiến tranh mở rộng ở Việt Nam. (Tin AFP ngày 18-11-1965). Trước tình hình căng thẳng về đồng, “ngày 21-3-1966, tổng thống Giôn-xơn đã cho phép lấy thêm 20 vạn tấn ở kho dự trữ chiến lược đề đáp ứng nhu cầu chiến tranh và những nhu cầu khác trong nước. Như vậy, khối lượng đồng dự trữ ở trong kho giảm còn 409.000 tấn”. (Tin AP, ngày 21-3-1966). “Về kẽm: dự trữ tại các xí nghiệp hiện nay đang ở mức thấp nhất và nguồn cung cấp cũng có khó khăn… Do đó hiện nay người ta đang nghiên cứu việc trích ra 20 vạn tấn để ổn định thị trường” (tạp chí Tài liệu nhanh, ngày 17-2-1965). Về kền, cuối tháng 11-1965, chính phủ Mĩ đã phải tung ra thị trường 1.000 tấn trong tổng số gần 20 vạn tấn dự trữ chiến lược, tổng số này có thể đảm bảo cung cấp cho các ngành sản xuất ở Mĩ trong vòng 18 tháng theo nhịp độ của năm 1964 (theo tạp chí Tài liệu nhanh, ngày 17-2-1965).

Sự náo nhiệt của nền công nghiệp cũng đã bắt đầu gây ra tình trạng căng thẳng trên thị trường lao động: “Hầu hết các xí nghiệp đều rất thiếu công nhân lành nghề nên khả năng mở rộng sản xuất hơn nữa có bị hạn chế… Tình trạng giành giật công nhân lành nghề giữa các xí nghiệp sẽ diễn ra gay gắt… Đặc biệt là ngành công nghiệp điện tử thì từ lâu đã vấp phải tình trạng thiếu công nhân lành nghề và việc mở rộng sản xuất vẫn còn là việc khó khăn” (tạp chí Tài liệu nhanh, ngày 17-2-1965).

Sự náo nhiệt của nền công nghiệp Mĩ và bữa tiệc máu đầy hứa hẹn đối với giai cấp đại tư sản cũng làm quay cuồng cả một số đầu óc được coi là trí tuệ của nước Mĩ. Một ngài giáo sư trường đại học Mi-chi-gan đưa ra con tính thần kỳ sau đây: “Nếu tăng chi phí quân sự ở Việt Nam lên 2 tỉ đô la thì 1 tỉ sẽ dùng để mua trang bị quân sự mới và 1 tỉ để mở rộng quân đội. Như vậy chỉ thêm 2 tỉ thì sẽ làm cho tổng số công nhân thất nghiệp giảm xuống 40 vạn người, các công ty Mĩ nhận được 600 triệu đô la lợi nhuận và chi phí tiêu dùng tăng thêm 1 tỉ đô la. Tổng sản phẩm xã hội tăng lên 3,2 tỉ đô la và chính phủ sẽ thu thêm được 700 triệu đô la thuế”. Chiến tranh như quan niệm của ngài giáo sư Mĩ, là một con gà đẻ trứng vàng mà mọi lớp người của nước Mĩ đều có thể ngửa tay ra mà hứng lấy! Ở đây, ngài giáo sư chỉ lầm lẫn có một điểm: ông ta coi bọn lái súng là đồng nghĩa với nước Mĩ. Chiến tranh, đối với bọn lái súng Mĩ, quả là một con gà đẻ trứng vàng. Nhưng đối với nước Mĩ thì ngược lại. Nước Mĩ chỉ có thể nghèo đi vì chiến tranh, ít nhất thì cũng nghèo đi 2 tỉ đô la trong trường hợp đang nói ở đây.

Trong khi giới kinh doanh Mĩ say sưa cuồng nhiệt về sự hưng thịnh của nền kinh tế mà cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là đòn bẩy thì tổng thống Mĩ chối đây đẩy: “Sự thịnh vượng của chúng ta không hề là kết quả của những cố gắng quân sự của chúng ta… Phần sản phẩm dành cho vấn đề Việt Nam chỉ chiếm chưa đầy 1,5% tổng sản phẩm xã hội của chúng ta”. Hắn làm như sự thịnh vượng của giai cấp đại tư sản, đặc biệt là của bọn lái súng tỉ phú Mĩ, chẳng có liên quan gì đến sinh mạng của hàng chục vạn thanh niên Mĩ và hàng chục tỉ đô la thành quả lao động của nhân dân Mĩ bị quẳng vào lò lửa chiến tranh.

Nhưng chiến tranh không phải chỉ đem lại cho chúng lợi nhuận và sự thịnh vượng bằng xương máu. Giai cấp đại tư sản Mĩ lợi dụng chiến tranh và ngân sách chiến tranh để kích thích sản xuất, tạo nên một sự thịnh vượng thời chiến và lẩn tránh một cuộc khủng hoảng kinh tế. Nhưng, cơ sở của cuộc khủng hoảng này không những không bị suy yếu đi mà trái lại, đang được sự thịnh vượng thời chiến bồi đắp thêm.

Ngay trong năm 1964, nền công nghiệp Mĩ đã bộc lộ những dấu hiệu không ổn định: chỉ số sản xuất công nghiệp lên xuống thất thường, sản xuất của mấy ngành khác như công nghiệp thực phẩm và công nghiệp sản xuất tư liệu nông nghiệp thì giảm sút, đặc biệt là đơn đặt hàng dân dụng, số nợ do bán chịu hàng tiêu dùng tăng để “cứu đồng đô la và cán cân thu chi quốc tế của Mĩ” đã được Giôn-xơn đặt ra trước quốc hội. Sự thịnh vượng thời chiến hiện nay, như chúng ta đã biết, càng làm cho sản xuất và năng lực sản xuất tiếp tục tăng lên trên cơ sở không ổn định. Các nhà kinh tế tư sản gọi đó là “tình hình quá nóng” (overheating). Thực tiễn của nền kinh tế Mĩ qua hai cuộc đại chiến thế giới chứng minh rằng “tình hình quá nóng” trong thời kỳ chiến tranh là bước chuẩn bị tất yếu cho một sự sụp đổ nghiêm trọng ngay sau khi việc dốc tiền của vào chi phí chiến tranh bắt đầu hãm bớt tốc độ.

Đứng trước những triệu chứng chẳng lành, ngày 1-6-1965, chủ tịch Ngân hàng dự trữ liên bang Mĩ đã công khai bộc lộ mối lo âu của giới tài phiệt: “Điều làm cho người ta ghê sợ là sự phồn vinh trước mắt của chúng ta có những điểm rất giống thời kỳ phát triển thần thoại hồi niên đại 1930”. Và bọn trùm ngân hàng Mĩ đã quyết định tăng tỉ suất lãi chiết khấu, coi đó là biện pháp chống lại “tình hình quá nóng”. Nhưng, có biện pháp nào ngăn được bày chó sói lăn xả vào miếng mồi hàng chục tỉ đô la do bọn cầm quyền Mĩ dâng đến tận mồm chúng? Thực tế là những đợt sóng vàng ngày càng lớn từ Lầu năm góc tuôn ra đang thúc đẩy bọn lái súng Mĩ và bọn tư bản kinh doanh hàng dân dụng đua nhau mở rộng sản xuất, tuyển thêm công nhân, tăng vốn đầu tư, tích trữ nguyên liệu và hàng hóa. Chúng mở rộng sản xuất theo đơn đặt hàng và mở rộng sản xuất để đón trước đơn đặt hàng nữa. Nuốt chưa hết những đợt sóng vàng này, chúng lại ngớp những đợt sóng vàng khác. Cứ như thế, sản xuất và năng lực sản xuất tăng lên với tốc độ khác thường trong khi sức mua người tiêu thụ tiếp tục giảm sút do việc tăng thuế, lạm phát, giá sinh hoạt đắt đỏ. Ít ra thì sự giảm sút đó cũng đang tiến triển trong trạng thái tiềm tàng và trước mắt còn bị những nhu cầu to lớn về hàng quân dụng và sức mua của lớp công nhân mới tuyển vì nhu cầu sản xuất hàng quân dụng che lấp đi. Việc mở rộng chi phí quân sự là kết quả đồng thời là nguyên nhân của việc thu hẹp sức mua của dân chúng. Việc thu hẹp sức mua này bao giờ cũng là nhân tố cơ bản dẫn đến khủng hoảng kinh tế dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.

Nhằm mục đích làm tăng thêm sức mua của người tiêu thụ, trong nhiều năm nay, giai cấp tư sản Mĩ đã đưa việc bán chịu trả dần lên hàng quốc sách. Nhưng mua chịu chẳng qua chỉ là thực hiện sức mua trước thời hạn mà thôi. Nếu tạm thời trong một thời gian nào đó, biện pháp bán chịu trả dần có giúp cho bọn tư bản Mĩ giảm bớt được tình trạng thừa ứ hàng hóa thì đến nay, nó đã tỏ ra hoàn toàn bất lực: Theo Víchto Péclô (tạp chí Sinh hoạt quốc tế, tháng 12-1965) thì hiện nay, việc trả những món nợ đến hạn thanh toán đã xén mất khoảng 15% thu nhập ròng (đã đóng thuế) của người tiêu thụ, trong khi ấy thì những khoản nợ mua chịu mới chỉ làm cho sức mua của họ tăng lên xấp xỉ bằng mức đó.

Năm 1965, số nợ mua chịu hàng tiêu dùng đã tăng thêm 9 tỉ đô la, và đạt con số 86 tỉ. Tốc độ tăng thêm 1965 là 12%, so với tốc độ tăng của năm 1965 là 10% và mấy năm trước là 8%. Trong tổng số nợ mua chịu thì 1/3 là nợ mua chịu ô tô. Với đà mua chịu này, người ta lo ngại rằng chẳng bao lâu nữa, nhân dân Mĩ không còn khả năng để mua chịu nữa! Hiện nay đối với nhiều gia đình, số nợ mua chịu đã bằng 40% thu nhập hàng năm của họ. Và cứ 10 gia đình Mĩ thì có 6 gia đình mắc nợ về mua chịu hàng tiêu dùng. Đó là chưa kể số nợ mua chịu trả dần về nhà cửa. Tổng số nợ loại này năm 1964 là 257,6 tỉ đô la và tốc độ tăng trung bình hàng năm là trên 10%. Cả hai loại nợ nói trên, năm 1965 lên tới 370 tỉ đô la, bằng 4/5 tổng số thu nhập quốc dân thật sự của nước Mĩ. Xem vậy thì thấy sự phồn vinh của nền kinh tế Mĩ dựa trên một sức mua giả tạo như thế nào!

Nói đến sức mua của nền kinh tế Mĩ, còn phải kể đến sức mua của chính phủ Mĩ mà một phần quan trọng là dựa trên cơ sở vay nợ của bọn trùm tài chính. Số nợ của chính phủ liên bang Mĩ năm 1965 lên tới 315 tỉ đô la. Ngoài ra chính phủ các bang cũng nợ tới 65 tỉ (năm 1961).

Cộng tất cả các khoản nợ của tư nhân (nhân dân Mĩ và các công ty tư bản) và của chính phủ thì số nợ của nước Mĩ đạt tới một con số khổng lồ: 1.300 tỉ đô la vào giữa năm 1965.

Trong điều kiện mà sự thịnh vượng tùy thuộc một phần rất lớn vào những mối quan hệ nợ nần chằng chịt như vậy thì chỉ cần một sự vấp váp xảy ra ở một khâu nào đó là đủ để cho toàn bộ guồng máy kinh tế đồ sộ kia xô nhau mà đổ vỡ. Điểm xuất phát của sự vấp váp lại chính là sức mua của người tiêu thụ tức là đông đảo nhân dân Mĩ.

Chính giữa lúc chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước Mĩ đang huênh hoang đắc chí về sự thịnh vượng thời chiến của chúng thì đất đang sụt lở dưới chân chúng. Khó khăn và chỗ yếu cơ bản của nền kinh tế Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam không phải ở chỗ nó không đủ sức sản xuất ra những phương tiện giết người mà là ngược lại, ở chỗ nó quá “thừa” năng lực sản xuất ấy. Ở đây, bệnh ứ máu còn nguy hiểm hơn cả bệnh thiếu máu.

Sự thịnh vượng thời chiến của nền kinh tế Mĩ đang thai nghén một cuộc khủng hoảng còn trầm trọng hơn cả cuộc khủng hoảng mà nó vừa tránh được. Hố ngăn cách giữa sản xuất và sức mua của quần chúng đang được khơi sâu thêm; áp lực của lạm phát và tín dụng quá mức đang đẩy giá cả lên cao. Trước tình hình đó chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không thể không tính đến những phương thức cấp cứu. Chúng đã tăng tỉ suất lãi ngân hàng để hãm bớt tín dụng. Chúng đang tranh cãi nhau về chủ trương kiểm soát giá cả và tiền lương. Nhưng tất cả các điều đó lại làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn nội bộ của xã hội Mĩ. Kiểm soát giá cả và tín dụng thì động chạm đến quyền lợi của bọn tư bản kinh doanh công thương nghiệp. Kiểm soát tiền lương thì động chạm đến quyền lợi của các tầng lớp lao động mà bọn cầm quyền Mĩ đang dùng miếng mồi “sự thịnh vượng thời chiến” để mua chuộc. Hãng AP ngày 10-2-1966 đưa tin:

“Chính phủ Giôn-xơn đang có những dấu hiệu tỏ ra sốt ruột muốn thi hành một chính sách cứng rắn hơn đối với một số công đoàn để theo đúng kế hoạch hướng dẫn giá cả và tiền lương mà chính phủ đã đề ra. Chính phủ đã dùng chính sách bẻ ghi để thúc các hãng kinh doanh lớn bãi bỏ việc tăng giá hàng đã thực hành từ năm ngoái. Bây giờ, chính phủ ngày càng chú ý tới công nhân và các nhà tư bản vì áp lực của nạn lạm phát tăng lên. Cho tới nay, chính phủ mới chỉ hoạt động ở hậu trường để cố gắng ngăn chặn điều mà nó cho là yêu sách quá đáng đòi tăng lương của một vài công đoàn. Nhưng chắc thế nào cũng sớm có một cuộc va chạm quyết liệt công khai. Kết quả có thể là từ một xích mích nhỏ dẫn đến một sự đoạn tuyệt nghiêm trọng giữa chính phủ và tổng công đoàn Mĩ AFL – CIO.

“Chủ tịch Gioócgiơ Mini của AFL – CIO có 13 triệu đoàn viên này đã cảnh cáo rằng họ sẽ không chịu bất cứ sự kiểm soát nào của chính phủ về tiền lương trừ phi chính phủ cũng kiểm soát được giá hàng và lợi nhuận. Công đoàn khổng lồ này sẽ đưa toàn bộ vấn đề này ra cuộc họp của họ bắt đầu từ ngày 13-2 tại Mai-a-mi”.

Mặt trái của sự thịnh vượng thời chiến mà nền kinh tế Mĩ đã từng chứng kiến trong cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên còn rất đậm nét trong tâm trí của giai cấp tư sản Mĩ. Tờ Thời đại, ngày 30-7-1965 viết: “Việc Mĩ tham gia ngày càng sâu ở Việt Nam có thể ngăn cản sự phát triển của nền kinh tế ở trong nước và sẽ dẫn đến việc kiểm soát giá cả, tiền lương và tín dụng đã xảy ra trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên…”.

Tờ Thời báo Nữu Ước, ngày 7-12-1965 viết: “Kinh tế Mĩ ngày càng rối loạn vì một cuộc chiến tranh đang mở rộng. Bản thân chính phủ cũng không thể phủ nhận rằng tình hình kinh tế đã thay đổi. Chính phủ đã công khai can thiệp nhằm kéo giá nhôm, thép và lúa mì xuống và gần đây lại yêu cầu tự nguyện hạn chế thêm nữa để giảm bớt số lượng đô la Mĩ chạy ra nước ngoài, điều đó chỉ rõ rằng Chính phủ Mĩ lo lắng đến cao độ trước nguy cơ lạm phát.”

Sự phát triển ưu tiên trong ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh không thể làm thiệt hại đến những ngành công nghiệp dân dụng, đặc biệt là thông qua việc thu hẹp thị trường của những ngành này. Giai cấp tư sản Mĩ chưa quên được thực tiễn đau xót của nền kinh tế Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên. Trong khi sản xuất công nghiệp năm 1953 nói chung tăng 38,8% so với năm 1949, trong đó, riêng ngành chế tạo cơ khí tăng 72%, hóa chất tăng 45%, thiết bị vận tải tăng 85%, thép tăng 43,5%, nhôm tăng 107%, thì công nghiệp thực phẩm chỉ tăng 7,5%, công nghiệp dệt giảm 6,5% (so với năm 1950), tàu buôn giảm 16,5%. Sự phát triển không cân đối và do đó, mức lợi nhuận không cân đối của những ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh và những ngành công nghiệp dân dụng là cơ sở kinh tế của sự phân chia ngày càng rõ nét thành phái “chủ chiến” và phái “chủ hòa” trong giai cấp thống trị Mĩ.

Việc Mĩ sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đồng thời sa lầy trong sự thịnh vượng thời chiến với những hậu quả nguy hại của nó là công nghiệp phục vụ chiến tranh lấn chiếm vị trí của công nghiệp dân dụng, lạm phát, giá cả hàng hóa lên cao, thiếu hụt trong cán cân thu chi quốc tế, hạn chế đầu tư ra nước ngoài, hạn chế “viện trợ” cho nước ngoài, đội tàu buôn bị thu hút một phần quan trọng vào các tuyến hậu cần, v.v… chắc chắn sẽ làm suy yếu hơn nữa vị trí của chủ nghĩa tư bản độc quyền Mĩ trên thị trường nước ngoài. Trong khi đó thì các “ông bạn” của Mĩ như Nhật, Anh, Pháp, Tây Đức không bỏ lỡ cơ hội để thò sâu cái vòi của họ vào các thị trường của Mĩ ở Á, Phi, Tây Âu, thậm chí vào cả cái “sân sau” của Mĩ là châu Mĩ La tinh. Hãng AP ngày 10-9-1965 đưa tin: “Các quan chức Bộ ngoại giao Mĩ đã than phiền về việc Tây Âu đang mở rộng các hiệp nghị buôn bán có tính chất phân biệt đối xử với Mĩ ở châu Phi, kể cả ở những vùng trước kia không phải là đất cũ của các nước Tây Âu”. Và các quan chức nói trên đã lên tiếng đe dọa: “Nếu họ tiếp tục mở rộng kế hoạch của họ về những hiệp nghị ưu tiên về buôn bán với các nước châu Phi thì Mĩ sẽ buộc lòng phải thay đổi chính sách buôn bán của Mĩ”. Tư bản độc quyền Nhật cũng ráo riết đi tìm mồi ở những thị trường xa xôi. Họ đặt chân lên châu Mĩ La tinh, và tuyên bố “sẵn sàng cung cấp thêm vốn với điều kiện nhẹ hơn cho tất cả các nước ở Tây Bán cầu”.

Cứ để cho bọn lái súng Mĩ say sưa lao vào con đường “càng nhiều đại bác thì càng nhiều phồn vinh” của chúng! Trên bầu trời của sự thịnh vượng thời chiến của Mĩ, mây đen đang ùn ùn kéo tới. Điều chắc chắn sẽ là: phồn vinh dựa trên đại bác càng nhiều thì tai họa càng lớn.

Với một nền kinh tế bị xâu xé bởi bao nhiêu mâu thuẫn, với những tai họa – về kinh tế cũng như về chính trị  do chính sự thịnh vượng thời chiến gây ra, liệu đế quốc Mĩ có đủ sức thi gan với dân tộc ta trong cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài “5 năm, 10 năm, 20 năm hay hơn nữa” không? Chính giai cấp tư sản Mĩ cũng chưa bao giờ tin như vậy.

Năng lực sản xuất và cung cấp những phương tiện chiến tranh của nền kinh tế Mĩ rất to lớn, nhưng đó là những năng lực sản xuất bị giới hạn. Những mâu thuẫn của bản thân nền kinh tế Mĩ, những tai họa mà sự thịnh vượng thời chiến của Mĩ đang thai nghén là những lực lượng trói chân trói tay năng lực sản xuất to lớn đó, thậm chí có thể trở thành những lực lượng tàn phá năng lực sản xuất to lớn đó. Điều này, chúng ta đã xem xét. Dưới đây sẽ đề cập đến những giới hạn cụ thể để từ đó nhìn rõ hơn khả năng cung cấp thật sự của đế quốc Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Khả năng mở rộng sản xuất chiến tranh của bọn tư bản độc quyền Mĩ dù lớn đến mức nào thì giới hạn của nó cũng vẫn là tổng số những đơn đặt hàng quân sự của Nhà nước (ở đây không nói đến những đơn đặt hàng quân sự của nước ngoài  số này nhiều lắm cũng chỉ trên dưới 1,5 tỉ đô la mỗi năm). Vậy mà tổng số những đơn đặt hàng quân sự của Nhà nước lại bị giới hạn bởi ngân sách quân sự, ngân sách này bao giờ cũng chỉ có thể là một bộ phận của ngân sách chung. Ngân sách chung của chính phủ liên bang Mĩ đến lượt nó lại bị giới hạn bởi nhiều nhân tố như chúng ta đã biết. Nói riêng về khoản chi phí dành cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, bao giờ nó cũng chỉ là một bộ phận có giới hạn nằm trong ngân sách quân sự  giới hạn này do chính cái “chiến lược toàn cầu” của đế quốc Mĩ quy định. Như vậy, dù cho bọn cầm quyền Mĩ có ngoan cố trong đường lối phản nhân dân của chúng đến mức nào, chúng cũng không thể động viên được toàn lực những nguồn của cải của nước Mĩ vào cuộc chiến tranh phi nghĩa này. Điểm phân biệt cơ bản giữa một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân và toàn diện, với một cuộc chiến tranh xâm lược, phi nghĩa, trái với ý chí của nhân dân là ở chỗ đó. Đối với cuộc chiến tranh này, và trong những điều kiện cụ thể của đế quốc Mĩ, một khối lượng chi phí hàng năm vài ba chục tỉ đô la có thể coi là những giới hạn cuối cùng về mặt tài chính. Đáng chú ý hơn nữa là: những khoản chi phí này lại không thể lặp đi lặp lại trong nhiều năm. Những khó khăn về kinh tế, tài chính và nhất là về chính trị, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, đã và đang tăng lên theo tỉ lệ thuận và với cấp số nhân cùng với khối lượng và thời gian kéo dài của các khoản chi phí cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Khả năng cung cấp của Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam còn bị giới hạn bởi ngay những đường lối và chính sách quân sự phản động của Mĩ. Đế quốc Mĩ ngoan cố theo đuổi chính sách chạy đua vũ trang và chuẩn bị chiến tranh thế giới mới. Trong nhiều năm nay chúng ra sức phát triển kho vũ khí hạt nhân cùng với các binh chủng và không quân chiến lược. Vì vậy trong chừng mực nhất định, khả năng ứng phó với cuộc chiến tranh sử dụng vũ khí thông thường của chúng có bị hạn chế, ngay cả về mặt cung cấp. Qua một số tin tức mà báo chí Mĩ và phương Tây tiết lộ, chúng ta có thể thấy được điều đó.

Dưới “tiêu đề” các kế hoạch huy động tiềm lực kinh tế của Mĩ dành cho trường hợp đại chiến thế giới đã tỏ ra không thích ứng với tình hình thực tế mà Mĩ phải đối phó hiện nay, và giai đoạn tái võ trang của Mĩ ngày nay rõ ràng là diễn ra trong thế bị động. Tờ tạp chí Pháp Tài liệu nhanh, số ra ngày 17-2-1965, viết: “Thật vậy các binh chủng của Mĩ hiện phải đương đầu với một loại chiến tranh trong đó những vũ khí, kho tàng, phương tiện chuyên chở và cả quân số tại ngũ đã tỏ ra không đủ dùng. Người ta có thể nói thêm rằng chính sách tiết kiệm của Bộ Quốc phòng Mĩ đã áp dụng đối với các binh chủng thông thường trong mấy năm qua làm cho khó khăn trở nên nghiêm trọng hơn”.

Hãng Roitơ ngày 24-1-1966 cũng đưa tin: “Trong lĩnh vực quốc phòng, Giôn-xơn tuyên bố là sau vấn đề Việt Nam, mục tiêu quan trọng thứ hai là cải tiến lực lượng chiến lược và chiến tranh thông thường của Mĩ”.

Dưới đây là một số tài liệu chứng minh “lực lượng chiến tranh thông thường” của Mĩ đã tỏ ra “không đủ dùng”.

Tờ Tin tức Mĩ và thế giới ngày 16-8-1965: “Một vài nhà quan sát quân sự lão thành nói rằng một số trang bị mà Hoa-thịnh-đốn tuyên bố là lỗi thời lại là những trang bị cần thiết nhất trong kiểu chiến tranh hiện nay ở Việt Nam. Thế mà những vũ khí cũ này lại không có sẵn, và những vũ khí mới hơn, những thứ tiếp viện mới hơn mà chúng ta thiết kế để thay thế cho những thứ cũ lại không đủ, thậm chí ngay cả ở Mĩ”.

Hãng UPI ngày 5-9-1965: “Tiểu ban chuẩn chi Thượng nghị viện đã cho công bố một tài liệu dày 99 trang (đã bị kiểm duyệt rất gắt gao), nói về tình trạng thiếu trang bị  một phần vì đưa sang Việt Nam  đã ảnh hưởng đến tính sẵn sàng chiến đấu của lục quân”.

Hãng AP ngày 20-12-1965 thuật lại lời tuyên bố của Phun-tơn, thượng nghị sĩ Mĩ mới đi thăm Viễn Đông về: “Chúng ta đang hoạt động cầm cự… Chúng ta không thể làm được nhiều hơn mức hiện nay chừng nào mà chúng ta không được cung cấp thêm đồ tiếp tế… Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara phải chịu trách nhiệm về tình trạng thiếu thốn đồ tiếp tế vì kho của ông hết nhẵn… Những thứ mà chúng ta cần hiện nay là vũ khí và trang bị hiện đại cho người của chúng ta ở đó. Nhưng đến cả thuốc trừ muỗi, rệp họ cũng không có đủ”.

Hãng AP ngày 4-10-1965: “Bộ quốc phòng Mĩ tiết lộ rằng một số đạn đại bác và súng nhỏ của Mĩ đã được chuyển từ các lực lượng ở châu Âu sang mặt trận Việt Nam”.

Tờ Tin điện chủ nhật, ngày 6-2-1966: “Ở Hoa-thịnh-đốn, hôm nay có tin cho biết việc Mĩ oanh tạc trở lại Bắc Việt Nam trong tuần này đã bộc lộ tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng về đạn dược, máy bay, phi công. Tình trạng thiếu bom nghiêm trọng đến nỗi các sĩ quan phụ trách vấn đề này tại Lầu Năm góc đang phải vét cả bom trong các kho dự trữ ở châu Âu và các nơi khác.

“Trong ngân sách quân sự mới đây của Mắc Namara người ta đã phát hiện thấy một số nhược điểm về các máy bay chiến thuật, máy bay vận tải hạng nhẹ và máy bay lên thẳng. Vì vậy người ta đã phải khắc phục những nhược điểm trên bằng cách tăng khá nhiều các khoản chi tiêu, trong khi đó thì ngân sách dành cho các loại vũ khí chiến lược lại bị cắt bớt”.

Hãng AP ngày 3-12-1965: “Hôm nay, các nhà điều tra cho biết: trong một thời gian 18 tháng, mỗi ngày tính trung bình có 318 máy bay lên thẳng của lục quân Mĩ, trong đó có một số ở Nam Việt Nam, phải nằm xó vì không có phụ tùng thay thế. Số máy bay phải nằm xó như thế là 437 chiếc”.

Để đối phó với cuộc chiến tranh nhân dân phát triển cao độ ở cả hai miền nước ta, bọn tướng tá Mĩ cảm thấy thiếu máy bay chiến đấu một cách nghiêm trọng. Tờ Thời báo ngày 4-2-1966, khi nói về việc oanh tạc miền Bắc, viết: “Các vị chỉ huy ngoài chiến trường vạch ra rằng Mĩ chỉ có 300 máy bay mà phải oanh tạc một vùng rộng 7.310 dặm vuông, trong khi người ta dùng tới 1.700 máy bay hồi đại chiến thứ hai để oanh tạc một vùng ở Bắc và Trung Ý rộng có 2.900 dặm vuông. Dù rằng các máy bay phản lực hiện đại có bay nhanh hơn nhưng như thế vẫn thiếu rất nhiều. Trong khi đó thì số máy bay dùng vào mục đích chiến thuật ở Nam Việt Nam lại nhiều đến nỗi các nhà quân sự ở Sài Gòn đã phải nói: ở Nam Việt Nam, chúng ta dùng một cái gậy to tướng để đánh một con ruồi, ở Bắc Việt Nam, chúng ta dùng một cái que để mong quật ngã một con voi!”. Cần phải nói thêm rằng: điều đáng buồn cho Mĩ là cả con voi lẫn con ruồi đều không quật ngã được! Cái bị quật ngã lại chính là “ưu thế tuyệt đối của không quân Mĩ”.

Để chống chọi với lực lượng không quân của địch gồm 3.000 chiếc máy bay hiện đại nhất  1/5 lực lượng không quân của nước Mĩ đế quốc chủ nghĩa  nhân dân ta chỉ có một màng lưới phòng không lấy súng cao xạ (miền Bắc) và súng bộ binh (miền Nam) làm nòng cốt. Vậy mà chúng ta đã đánh gục “ưu thế tuyệt đối của không quân Mĩ”, con chủ bài mà đế quốc Mĩ thường đem ra dọa nạt nhân dân thế giới. Đến nay gần 5.000 máy bay của chúng đã bị bắn rơi và phá hủy trên chiến trường Việt Nam. Chỉ trong năm 1965, chúng ta đã bắn rơi và phá hủy 2.200 chiếc, và sang năm 1966 trong 3 tháng đầu đã bắn rơi và phá hủy 1.032 chiếc. Riêng số máy bay bị bắn rơi trên miền Bắc theo sự thú nhận của bọn sĩ quan cao cấp Mĩ, đã làm cho chúng bị thiệt hại 1 tỉ đô la (Tạp chí Tin tức Mĩ và thế giới, ngày 17-1-1966). Sự thiệt hại về máy bay trên chiến trường Việt Nam đã làm cho nền kinh tế Mĩ giàu mạnh là thế mà vẫn không sản xuất kịp nhu cầu. Về máy bay chiến đấu đã có lần Mĩ phải hỏi mua lại của Pháp 50 chiếc Scai-rây-đơ đã bán cho Pháp trước đây. Còn về máy bay trực thăng mức sản xuất đã được tăng lên gấp đôi: từ 60 chiếc hàng tháng trước đây lên đến 100 chiếc (Theo báo Cờ Mĩ ở Thái Bình Dương ngày 13-1-1966). Một bộ phận quan trọng trong số 13,1 tỉ đô la mà Giôn-xơn vừa xin thêm quốc hội Mĩ cho tài khóa 1965-1966 chính là để bù vào lỗ hổng của không quân Mĩ. Nhưng 3.000 máy bay dự định chế tạo thêm này đủ để kéo dài canh bạc khát nước của bọn hiếu chiến Mĩ được bao lâu?

Đế quốc Mĩ là kẻ thù của nhân dân thế giới. Chính sách của chúng là chính sách xâm lược và gây chiến. Vì vậy, dù có sẵn một kho vũ khí to lớn, chúng vẫn không bao giờ cảm thấy yên tâm. Chính sách và tình thế của chúng không cho phép chúng dốc cả cái kho vũ khí và dự trữ chiến lược vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Ngay ở mức tiêu hao như hiện nay, cuộc chiến tranh này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến “tính sẵn sàng chiến đấu” của quân đội Mĩ.

Trong một cuộc thảo luận tại Ủy ban đối ngoại của thượng nghị viện Mĩ, một “cựu chiến lược gia của Lầu Năm góc”  tướng Ghê-vin  đã bộc lộ tâm trạng lo lắng của giới cầm quyền Mĩ trước tình hình đó như sau:

“Tôi bắt đầu quan tâm nhiều đến vấn đề Việt Nam khi tôi thấy chúng ta bắt đầu giảm bớt những sự cam kết của chúng ta trên toàn cầu về mặt kinh tế, vì tôi bắt đầu nghĩ rằng việc leo thang ở Đông Nam Á sẽ tác hại đến vị trí chiến lược của chúng ta.

… Những điều mà tôi được biết sau khi đọc những bản báo cáo của những vị bộ trưởng đã đi thăm Việt Nam trong những năm gần đây làm cho tôi tin rằng cứ mỗi lần đánh giá tình hình, họ lại có những tính toán sai lầm và cứ như thế mãi…

… Chúng ta có thể đã đi quá xa ở Việt Nam, đến mức là khả năng đối phó của chúng ta sẽ bị sút kém rất nhiều nếu như lại nổ ra một cuộc chiến tranh Triều Tiên, một cuộc chiến tranh Thái Lan… và tôi rất lo ngại vì vị trí chiến lược của chúng ta trên thế giới đang bị ảnh hưởng rất tai hại.

… Tôi sửng sốt khi thấy trong ngân sách tài khóa 1967, chúng ta sẽ chi 10,5 tỉ đô la cho vấn đề Việt Nam. Việt Nam hiện nay có đáng để cho chúng ta đầu tư một số khả năng của quốc gia như vậy không, trong khi chúng ta còn có bao nhiêu sự cam kết trên khắp thế giới? Chúng ta có bị ám ảnh nhiều quá về vấn đề đó hay không? Chúng ta có lãng quên tình hình trong phạm vi toàn cầu không?” (Tạp chí Tin hàng tuần, số ra ngày 21-2-1966).

Chính sách thù địch của đế quốc Mĩ đối với nhân dân thế giới và phong trào cách mạng ngày càng phát triển trên khắp thế giới, việc duy trì và tăng cường “tính sẵn sàng chiến đấu” của quân đội Mĩ một đội quân rải ra khắp thế giới rõ ràng là những giới hạn đối với khả năng cung cấp của Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Đế quốc Mĩ giàu, năng lực sản xuất của Mĩ lớn, nhưng với một cơ thể kinh tế đầy ung nhọt, với những mâu thuẫn kinh tế – xã hội ngày nay càng sâu sắc, với một nguồn tài chính có hạn, với một mạng lưới chiến tranh giăng ra khắp thế giới, với chính sách chuẩn bị một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực, khả năng cung cấp của nó trong cuộc chiến tranh có sức tiêu hao rất lớn này rõ ràng là một khả năng có hạn, xét về mặt khối lượng cũng như về độ dài của thời gian.

Dù có đế quốc Mĩ có sẵn một kho phương tiện chiến tranh dồi dào vô hạn đi chăng nữa  điều mà chúng thường đem ra trộ thiên hạ  thì khả năng vận chuyển những phương tiện này đến chiến trường Việt Nam lại càng không phải là vô hạn. Chúng ta chuyển sang nghiên cứu khả năng thứ hai của đế quốc Mĩ trong việc giải quyết vấn đề hậu cần.

Trong nghệ thuật dùng binh, điều tối kỵ xưa nay vẫn là đem quân đi đánh xa. Lịch sử chiến tranh đã từng chứng kiến sự thất bại thảm hại của nhiều đội quân thiện chiến trong trường hợp tiến hành chiến tranh ở nơi xa hậu phương. Bọn phiêu lưu quân sự Mĩ cậy mình giàu có đã lao vào một cuộc chiến tranh xa xôi nhất trong lịch sử. Mặc dầu có phương tiện vận tải hiện đại, ít nhất chúng cũng phải mất gần một tháng (đây chỉ kể thời gian tàu biển vượt đại dương, chứ chưa kể thời gian bốc hàng lên tàu và xuống tàu) mới nối liền được khoảng cách 8.000 hải lý đó. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ đơn giản như vậy. Trên vấn đề vận chuyển phương tiện chiến tranh, đế quốc Mĩ vấp phải những khó khăn to lớn ít nhất ở 3 khâu sau đây: khâu thứ nhất là vận chuyển từ Mĩ đến Việt Nam, khâu thứ hai là bốc dỡ hàng lên bờ, và khâu thứ ba là vận chuyển từ bờ biển vào chiến trường nội địa.

Quân đội Mĩ là một đội quân “công tử”, tiêu xài rất tốn kém, cả về phương tiện sinh hoạt lẫn phương tiện chiến đấu. Một tên lính Mĩ mỗi ngày đòi hỏi trên dưới 30 ki-lô-gam phương tiện vật chất. Ngay việc nuôi một tên lính Mĩ cũng đã tốn bằng nuôi 15 tên lính ngụy Việt Nam. Vì vậy, gánh nặng về cung cấp và vận tải của Mĩ rất lớn.

Hồi năm 1964, mỗi tháng Mĩ dùng tới 45 chiếc tàu biển để chở 25 vạn tấn vũ khí và trang bị sang Việt Nam. Tháng 9-1965, số tàu sử dụng lên đến 100 chiếc và số hàng chuyên chở lên đến 54 vạn tấn. Sang tháng 10-1965, số hàng chuyên chở lên đến 80 vạn tấn, tháng 11-1965: 90 vạn tấn, và tháng 1-1966: 1,2 triệu tấn. “Hiện nay hàng tháng có chừng 300 tàu Mĩ chạy từ Mĩ sang Việt Nam” (AFP, 15-3-1966). Đấy là chưa kể 3/4 lực lượng vận tải hàng không của Mĩ đã bị thu hút vào tuyến hậu cần này. Để đáp ứng nhu cầu vận tải, đế quốc Mĩ đã phải huy động 180 trong tổng số 385 chiếc tàu của cục hàng hải quân sự thuộc Hải quân Mĩ (theo báo Cờ Mĩ ở Thái Bình Dương ngày 13-1-1966). Còn lại bao nhiêu đều phải trông vào đội tàu buôn. Song, đội tàu buôn của Mĩ thì lại không đủ sức để gánh vác. Tờ Nhật báo phố Uôn, ngày 18-6-1965, khi kiểm điểm khả năng đáp ứng của nền kinh tế Mĩ trước cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đã đánh giá như sau: “Đội tàu buôn của Mĩ có lẽ sẽ gặp khó khăn nhiều nếu cuộc chiến tranh ở Việt Nam tiến tới mức độ của cuộc chiến tranh Triều Tiên. Ngay mấy tháng trước khi bắt đầu cuộc chiến tranh Triều Tiên, đội tàu buôn của Mĩ có tất cả 3.672 chiếc, trong đó có 1.563 chiếc mới toanh. Hiện nay nó chỉ có 1.700 chiếc, trong số đó chỉ có 910 chiếc hoạt động. Sự suy sụp này phản ánh một sự thực là các tàu Mĩ thường không cạnh tranh nổi với các tàu nước ngoài, vì chi phí đóng tàu và chi phí kinh doanh tàu ở các nước khác thường là thấp hơn ở Mĩ.

Một số người phụ trách việc chuyên chở bằng tàu biển cũng dự kiến là sẽ thiếu công nhân. Lúc nổ ra chiến tranh Triều Tiên, những đội “tuyển mộ” đã cấp tốc đi khắp nước để tìm những người có kinh nghiệm hàng hải trong chiến tranh thế giới thứ hai. Các nguồn tin của ngành này nói rằng vấn đề hiện nay lại còn bi đát hơn nhiều. Giôn Uyn, người chỉ huy cơ quan vận tải quân sự đường biển khu vực Đại Tây Dương trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, nhớ lại rằng: “Chúng tôi đã tách 600 chiếc tàu ra khỏi đội tàu dự trữ, nhưng hồi đó chúng tôi đã không tìm ra thủy thủ cho các tàu đó”. Chỉ mới 5-6 năm sau đại chiến thứ hai mà đã như thế, huống hồ bây giờ đã 15 năm sau chiến tranh Triều Tiên!”

Trong lĩnh vực hàng hải, do chi phí cao, khả năng cạnh tranh của Mĩ thua xa các nước tư bản khác, mặc dầu chính phủ Mĩ đã phải bỏ ra hàng năm mấy trăm triệu đô la để phụ cấp “bù lỗ” cho các hãng vận tải đường biển. Trong khi đó thì các xưởng đóng tàu của Mĩ hoạt động chưa được 1/2 công suất, mà phần lớn cũng chỉ là trông vào đơn đặt hàng quân sự. Điều đó giải thích tại sao đội tàu buôn của Mĩ sa sút nghiêm trọng. Hiện nay, về mặt trọng tải, đội tàu buôn (đang hoạt động) của Mĩ xếp hàng thứ tư sau Anh (hơn Mĩ gần 2 lần), Libêria và Na Uy. Xấp xỉ bằng Mĩ là Nhật, Liên Xô và Hy Lạp. Với gần 1.000 chiếc tàu đó, đội tàu buôn của Mĩ phải đảm bảo chuyên chở một khối lượng rất lớn hàng hóa của Mĩ mà quan trọng nhất là những nguyên liệu chiến lược vơ vét từ khắp các nơi trên thế giới đưa về Mĩ. Trong khi đó, nó vẫn không thể bỏ qua những miếng mồi béo bở do việc bắt ép các nước phụ thuộc Mĩ phải thuê tàu Mĩ với giá cước đắt gấp rưỡi hay gấp đôi giá cước trên thị trường quốc tế. Cuộc chiến tranh xa xôi ở Việt Nam lại khoác thêm cho đội tàu Mĩ một gánh nặng không thể kham nổi. Một thượng nghị sĩ Mĩ  Giôn Xtennít  đã thừa nhận một cách buồn rầu rằng “Mĩ không có khả năng đảm bảo việc vận tải hậu cần cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam đồng thời vẫn giữ được những sự cam kết của mình trên các luồng hàng hải quốc tế”.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên, để phục vụ cho 40 vạn quân Mĩ tham chiến, Mĩ phải huy động tới 750 chiếc tàu vận tải, trong đó có 600 chiếc rút từ đội tàu dự trữ ra. Tình hình hiện nay của đội tàu dự trữ khác xa hồi chiến tranh xâm lược Triều Tiên. Hiện nay, về danh nghĩa, nó có khoảng 1.000 chiếc, nhưng phần lớn lại là đồ bỏ đi. Tuổi trung bình của chúng là 20 đến 25 năm. Muốn đem ra sử dụng, phải sửa chữa tốn mỗi chiếc từ 25 vạn đến 1,6 triệu đô la mà vẫn không bảo đảm an toàn. Thời gian sửa chữa mỗi chiếc phải mất mấy tháng vì thiếu công nhân lành nghề. Sửa chữa xong cũng chưa hẳn sử dụng được ngay vì thiếu thủy thủ, nhân viên kỹ thuật và sĩ quan điều khiển tàu. Qua các cuộc điều tra Ủy ban hàng hải của Quốc hội Mĩ hồi cuối năm 1965, bọn cầm quyền Mĩ đã đi đến kết luận: “Nước Mĩ tiến hành chiến tranh ở Việt Nam mà không có đội tàu vận tải thích ứng… Và việc dựa vào đội tàu dự trữ lại đẻ ra nhiều vấn đề nghiêm trọng”.

Đến nay, qua nhiều đợt huy động, bọn cầm quyền Mĩ mới sử dụng được mấy chục chiếc của đội tàu dự trữ.

Tuy vậy, chúng vẫn buộc phải thuê tàu nước ngoài, mặc dù làm như vậy là vi phạm pháp luật của nước Mĩ (Pháp luật Mĩ quy định “chỉ có tàu Mĩ mới được phép chuyên chở những loại vật tư mà lục quân và hải quân sử dụng hay thu mua”), và tiêu tốn ngoại tệ vàng. Song việc thuê tàu nước ngoài cũng không phải là thuận buồm xuôi gió. Tháng 8-1965, thủy thủ chiếc tàu Hy Lạp “Enbiricốt” đã kiên quyết không chịu chuyên chở một vạn tấn hàng của Mĩ sang Việt Nam. Họ từ chối luôn cả miếng mồi 1 vạn đô la “tiền thưởng” của Mĩ. Chuyến hàng này trước đó đã bị thủy thủ chiếc tàu Mếch xích “En Mêhicanô” tẩy chay. Tháng 9-1965 lại một chiếc tàu Hy Lạp nữa  chiếc Marilôna  rời nước Mĩ mà không chở gì cả, vì thủy thủ chiếc tàu này kiên quyết không chịu bốc lên tàu chuyến hàng quân sự của Mĩ đưa sang Việt Nam. Cùng thời gian đó 3 công ty tàu biển Nhật bản đã hủy bỏ hợp đồng chở hàng cho Mĩ sang Việt Nam vì bị liên đoàn thủy thủ Nhật Bản phản đối. Đầu năm 1966 hai chiếc tàu Anh cũng phải hủy bỏ chuyến hàng quân sự của Mĩ đưa sang Việt Nam vì bị thủy thủ người Trung Quốc ở Hương Cảng làm việc trên các tàu đó phản đối. Tính từ giữa năm 1965 đến nay, có tới gần 1.000 thủy thủ người Trung Quốc ở Hương Cảng làm việc trên 28 chiếc tàu nước ngoài đấu tranh phản đối việc chuyên chở hàng hóa và dụng cụ chiến tranh sang miền Nam Việt Nam.

Trước phong trào tẩy chay của thủy thủ các tàu nước ngoài, hạ nghị viện Mĩ Râugiớt, kêu gào ở Hạ nghị viện: “Chính phủ Mĩ không được ỷ lại vào các tàu buôn nước ngoài để chuyên chở vũ khí và hàng quân sự sang Nam Việt Nam… Mĩ rất cần có nền công nghiệp đóng tàu buôn vững mạnh!” (AP ngày 1-9-1965). Điều đáng buồn cho ông nghị Râu-giớt là “nền công nghiệp đóng tàu buôn vững mạnh” mà Mĩ mong muốn lại không thể ra đời theo ý muốn của Mĩ được. Trong khi đó nếu không “ỷ lại vào các tàu buôn nước ngoài” thì làm sao vượt qua được 8.000 hải lý để mon men đến đất Việt Nam?

Cũng không phải chỉ có cuộc đấu tranh của các thủy thủ tàu nước ngoài làm cản trở tuyến hậu cần của quân đội Mĩ. Ngay cả thủy thủ Mĩ cũng đã từng đe dọa nghiêm trọng kế hoạch tiếp tế cho quân đội viễn chinh Mĩ. Hãng Roi-tơ ngày 18-7-1965 đưa tin về cuộc đình công của 3 nghiệp đoàn hàng hải Mĩ (nghiệp đoàn của kỹ sư, của sĩ quan lái tàu và của nhân viên điện đài trên tàu) như sau: “Hôm nay, bộ trưởng bộ Thương mại Mĩ Giôn-Côn-nơ nói rằng cuộc đình công của các sĩ quan lái tàu đã làm cho 100 chiếc tàu Mĩ phải chết dí một chỗ trong hơn 1 tháng nay và đang làm cho chính phủ Mĩ ngày càng lo ngại vì ảnh hưởng của nó đối với việc chở hàng quân sự tiếp tế sang Việt Nam”.

Mới chỉ đưa có 20 vạn quân sang Việt Nam mà đế quốc Mĩ đã cảm thấy lúng túng trong việc tiếp tế như vậy. Đưa tới 40 vạn quân thì sự lúng túng chắc chắn không phải chỉ tăng lên gấp đôi!

Ngoài sự lúng túng và tiếp tế, đế quốc Mĩ còn đứng trước nhiều vấn đề nan giải khác: Địa vị của Mĩ trên các luồng hàng hải quốc tế sẽ ra sao? Việc chuyên chở về Mĩ những nguyên liệu chiến lược cướp bóc được từ khắp nơi trên thế giới sẽ giải quyết như thế nào? Làm thế nào đối phó với những hậu quả nghiêm trọng của việc chi phí ngoại tệ vàng trong việc thuê tàu nước ngoài? Đối phó với phong trào chống chiến tranh xâm lược của Mĩ trong hàng ngũ thủy thủ ra sao? Chặng đường qua đại dương từ Mĩ đến Việt Nam dù có bắc một chiếc cầu bằng vàng thì cũng vẫn là một chặng đường đầy sóng gió!

Đưa hàng chục triệu tấn dụng cụ chiến tranh qua đại dương đã là một vấn đề phức tạp. Bốc dỡ hàng chục triệu tấn ấy lên bờ biển Việt Nam lại càng phức tạp hơn.

Trong hơn chục năm xâm chiếm miền Nam nước ta, đế quốc Mĩ đã bỏ ra hàng trăm triệu đô la để xây dựng hệ thống đường giao thông chiến lược, sân bay, quân cảng, nhằm biến miền Nam nước ta thành căn cứ quân sự của chúng. Nhưng, chúng không ngờ rằng chính cái căn cứ quân sự ấy lại có lúc biến thành miệng núi lửa, và việc đưa quân viễn chinh Mĩ ồ ạt vào nơi đó đã xảy đến với chúng trong tình thế hoàn toàn bị động. Càng ngày bọn cầm quyền Mĩ càng cảm thấy thấm thía sự phiêu lưu của chúng.

“Phó tổng thống Mĩ Hăm-phơ-rây nói việc đưa 15 vạn lính chiến đấu vào Nam Việt Nam trong 6 tháng, qua một số rất ít cảng và nơi đổ bộ, là một việc trước đây chưa ai làm trong lịch sử thế giới”. (AP ngày 15-3-1966).

Menxphin, sau khi cầm đầu một phái đoàn thượng nghị sĩ đi điều tra tình hình miền Nam Việt Nam, đã trình thượng nghị viện Mĩ một bản báo cáo từ đầu đến cuối nói lên những khó khăn và bế tắc của Mĩ. Trong bản báo cáo công bố ngày 8-1-1966 này, có đoạn viết: “Việc tăng nhanh lực lượng Mĩ đã gây nên tình trạng hết sức căng thẳng về phương tiện cho hệ thống hậu cần mới, do đó việc chậm bốc dỡ và chuyển vận các trang bị không phải là chuyện bất thường. Tình trạng thiếu thốn các thứ quan trọng đã xảy ra và vẫn còn tồn tại mặc dù có những cố gắng để thủ tiêu tình trạng đó”.

Báo Tin tức Mĩ và thế giới, ngày 16-8-1965, viết: “Khi những đơn vị chiến đấu đầu tiên bắt đầu đổ bộ theo kế hoạch mới của tổng thống Giôn-xơn để tăng cường lực lượng Mĩ trên chiến trường miền Nam Việt Nam thì đã bắt đầu có những dấu hiệu của một số rối loạn nghiêm trọng về hậu cần”.

Tờ Thời báo Nữu Ước, ngày 28-11-1965, viết: “Việc chuyên chở người, vũ khí và đồ tiếp tế bị chậm trễ, thiếu thốn… Hiện tượng phổ biến là nhiều tàu bè vẫn phải nằm bẹp ở cảng Sài Gòn và các cảng khác dọc bờ biển. Tính trung bình mỗi tàu bị chậm từ 10 đến 13 ngày, chưa kể thời gian bốc dỡ hàng. Một số tàu chở các loại hàng không cấp thiết thường phải nằm chờ ở cảng từ một đến hai tháng mới dỡ xong hàng”.

Một thượng nghị sĩ Mĩ than phiền: “Chúng ta hiện có 75 tấn truyền đơn ở trong kho, chúng ta không thể đem sang Việt Nam được vì chúng ta không có phương tiện để vận chuyển. Và tôi đã nhìn thấy ít nhất là 100 chiếc tàu ngổn ngang ở cảng Sài Gòn” (AP ngày 13-12-1965).

Theo báo cáo của Gơlixơn, chủ tịch Hội công nhân bốc vác quốc tế, gửi cho Quốc hội Mĩ, thì sự chậm trễ trong việc bốc dỡ hàng ở Sài Gòn làm cho Mĩ bị thiệt mỗi ngày 1 triệu đô la (AP ngày 10-2-1966).

Sau đây, chúng ta hãy nghe một số đoạn trong bài tường thuật sinh động của phóng viên hãng AFP ở Sài Gòn phát đi ngày 8-12-1965:

“Theo các nguồn tin khác nhau ở Sài Gòn thì vấn đề hậu cần của quân đội Mĩ ở Nam Việt Nam hiện nay gặp khó khăn đến mức là có thể làm cho những thứ tăng viện quan trọng không thể nào cập bến hay đổ bộ xuống được trong tương lai trước mắt.

Các cảng hiện có đang tắc nghẽn vì đường sá bị cắt đứt làm cho hàng không thể chuyển đi cho các đơn vị được, nằm chất đống trên các bến. Các căn cứ đang xây dựng thì còn lâu mới làm xong. Mới đây khi ngồi trên máy bay nhìn xuống vịnh Cam Ranh, người ta đã có thể đếm được tới 16 chiếc tàu sóng hàng nhau thả neo ở ngoài bến để đợi bốc dỡ hàng. Trên đường băng, các máy bay vận tải C.130 chở đạn đại bác 20 mi-li-met sang Việt Nam cung cấp cho các máy bay khu trục phóng pháo hay chở đạn rốc két cho máy bay lên thẳng, thường bị ùn lại đột ngột. Ở ngoài khơi Vũng Tàu, ở cửa sông, khúc giữa sông cũng như ngay tại bến Sài Gòn đều thế cả. Hàng chục tàu chở hàng phải đợi để bốc dỡ. Mỗi tàu phải chờ như thế từ 2 đến 3 tuần.

“… Vấn đề bốc dỡ và chuyên chở hàng sang Việt Nam là vấn đề cấp bách thứ hai mà bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara khi về tới Hoa-thịnh-đốn phải giải quyết. Vấn đề cấp bách thứ nhất là định xem phải đưa bao nhiêu quân vào Nam Việt Nam nữa. Trong tình trạng hiện nay hai vấn đề này dính chặt lấy nhau. Số viện binh Mĩ có tới Nam Việt Nam được hay không là tùy ở vấn đề hậu cần có giải quyết nổi hay không.

Dấu hiệu báo động đã được nêu lên từ trận Pơlâyme. Khi ấy, bộ chỉ huy Mĩ đã nhận ra rằng chỉ có mỗi một việc là tiếp tế đạn dược cho riêng một lữ đoàn tham chiến thôi mà họ cũng không có đủ máy bay vận tải để chở rồi. Ngay đến việc tiếp tế cho những toán quân đóng xung quanh một thành phố cửa biển như Đà Nẵng cũng đang đặt ra nhiều vấn đề. Việc bốc dỡ hàng lên các tàu thật là khó khăn. Hàng chất phứa phựa lên các kho, bến. Muốn mở rộng căn cứ ra thì lại phải tăng thêm số quân bảo vệ căn cứ. Thật là một cái vòng luẩn quẩn.

Người ta thường được nghe các phi công nói lên tâm trạng lo sợ “thấy căn cứ Đà Nẵng bị chìm xuống nước nếu như lại có thêm một chiếc máy bay hạ cánh xuống đây”.

“Các kế hoạch hậu cần của Mĩ ở Việt Nam được đem ra thi hành từ mùa xuân vừa qua trong đó có quyết định sửa sang vịnh Cam Ranh đã bị lạc hậu nhiều vì nhu cầu chiến thuật tăng lên… Trong các giới quân sự, người ta cho rằng tình hình mất thăng bằng hiện nay chỉ có trầm trọng thêm và không thể tránh khỏi tai họa.

Các đội công chính dân sự Mĩ đang thực hiện các công trình xây dựng sân bay, hải cảng với những chi phí gần như không có giới hạn nào cả, những chi phí này đang tác động rất rõ vào sự thăng bằng kinh tế của Nam Việt Nam. Nạn lạm phát hiện nay là một trong những biểu hiện trầm trọng nhất của tình trạng mất thăng bằng. Tình thế này đủ nghiêm trọng buộc những người cầm đầu Nam Việt Nam và người Mĩ hãm bớt lạm phát, nhưng nó lại là một tình thế cần phải có để tiếp tục thực hiện các kế hoạch quân sự… Các công trình này lại không ra làm sao cả đối với cuộc chiến tranh như kiểu chiến tranh du kích ở Nam Việt Nam!”

Về việc xây dựng các công trình này, tờ Thời báo, ngày 11-2-1966 cho biết: “thiếu tướng Carôn Điuna, tham mưu phó quân đoàn 8 sẽ đến Việt Nam làm phụ tá cho Mắc Namara phụ trách các công trình đáng giá 1 tỉ đô la với 4 vạn công binh và nhân viên dân sự. Ngành công binh Mĩ gồm 7 vạn người phải tham gia vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam nhiều hơn tất cả các cuộc chiến tranh khác”.

Tờ báo Nhật Axahi Simbun ngày 22-2-1966 cũng cho biết: “Các cảng Đà Nẵng, Quy Nhơn và các cảng khác ở Nam Việt Nam, không một cảng nào có thể cho tàu lớn vào đỗ được. Hiện nay, Mĩ phải dùng tới 15.000 công binh và 265.000 nhân viên kỹ thuật và công nhân thuê mướn các công ty Mĩ để gấp rút tiến hành xây dựng tại nhiều hải cảng, sân bay ở Nam Việt Nam. “Thật đúng như nhận xét của một tờ báo Mĩ: “Chưa bao giờ các nhà kinh doanh Mĩ lại theo chân binh lính tham gia vào một cuộc chiến tranh ở quy mô như hiện nay”. (Theo AP, ngày 25-1-1966).

Tình trạng ứ đọng ở các hải cảng còn đặt ra cho bọn xâm lược Mĩ một vấn đề không kém phần nghiêm trọng, đó là việc giam chân một bộ phận lớn đội quân viễn chinh Mĩ tại các căn cứ bờ biển để làm nhiệm vụ canh gác kho tàng. Hầu như toàn bộ sư đoàn lính thủy đánh bộ, đội quân “xung kích ven biển lừng danh” của Mĩ, đã giành được cái may mắn đó.

Con đường tiếp tế từ hậu phương đến tiền tuyến của quân xâm lược Mĩ giống như một dòng sông mà cửa sông bị thắt lại để rồi tỏa vào những dòng lạch thường xuyên bị tắc nghẽn. Muốn khơi thông những dòng lạch này, chỉ riêng những lưỡi xẻng bằng vàng chưa đủ. Phải có cả những dòng thác máu của bọn xâm lược nữa!

Trong bản báo cáo ngày 8-1-1966, Menxphin đã thừa nhận thực tế là: “Việc liên lạc và vận chuyển giữa các vùng trở nên ngày càng gay go hết sức, trừ phi được Việt cộng cho phép”. Trong cái biển cả của cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam Việt Nam thì mỗi một vị trí đóng quân của giặc là một hòn đảo bốn bề sóng vỗ. Chỉ riêng việc tiếp tế những phương tiện sinh hoạt và dụng cụ chiến tranh từ những căn cứ hậu cần ven biển đến những vị trí đó cũng đã thu hút và tiêu hao một lực lượng to lớn của giặc Mĩ, về người cũng như về của.

Sau khi đã trải qua một con đường vạn dặm để đến được những vị trí này, những phương tiện vật chất của đế quốc Mĩ mới chỉ bắt đầu bước vào quá trình trong đó nó sẽ được sử dụng để biến thành sức mạnh quân sự. Nó có thể biến thành một sức mạnh quân sự như thế nào, điều đó chúng ta không nói đến ở đây. Nhưng rõ ràng là: cái tuyến hậu cần vạn dặm của đế quốc Mĩ quả là một con đường lát bằng vàng và đầy chông gai, cạm bẫy. Với con đường đó, liệu đế quốc Mĩ có dám liều lĩnh tăng quân lên 30 vạn, 40 vạn hay hơn nữa không? Và liệu chúng có đủ sức theo đuổi cuộc chiến tranh kéo dài năm này qua năm khác không?

Về phía nhân dân Việt Nam, chúng ta chiến đấu ngay trên mảnh đất quê hương của chúng ta. Mảnh đất đó là nguồn sức mạnh vô tận của chúng ta, là hậu phương của quân đội chúng ta, hậu phương này lại nối liền một dải với phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh. Đứng trên mảnh đất đó, chúng ta có đủ tinh thần và lực lượng để tiến hành cuộc kháng chiến cứu nước đến toàn thắng, bất kể tình huống như thế nào.

Kết luận

Chúng ta đã nghiên cứu khả năng động viên tài chính và khả năng giải quyết vấn đề hậu cần của đế quốc Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, để từ đó đánh giá lực lực lượng kinh tế của địch trong cuộc chiến tranh này. Từ những sự phân tích nói trên, có thể rút ra vài nhận xét chung sau đây:

  1. Mĩ là nước đế quốc giàu nhất thế giới, nhưng trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, nó chỉ là một lực lượng có hạn. Về khả năng động viên tài chính, khả năng cung cấp những phương tiện vật chất cho chiến tranh và khả năng vận tải tiếp tế cho chiến trường, nghĩa là về cả ba điều kiện kinh tế trọng yếu nhất để tiến hành chiến tranh, nó đều chỉ là một lực lượng có hạn.

Cái gì đã biến nước đế quốc giàu nhất thế giới kia thành một lực lượng có hạn trong một cuộc chiến tranh “hạn chế” như cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam?

Trước hết phải kể đến tính chất phi nghĩa của cuộc chiến. Vì là một cuộc chiến tranh phi nghĩa cho nên bọn cầm quyền không thể động viên được toàn bộ hay phần lớn những nguồn tài chính và vật tư của nước Mĩ để phục vụ chiến tranh. Phong trào phản đối chiến tranh xâm lược của nhân dân Mĩ ngày càng trở thành lực lượng trói chân trói tay bọn cầm quyền hiếu chiến Mĩ, về mặt tài chính cũng như về các mặt khác.

Nền kinh tế Mĩ là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vốn đã mang trong lòng nó nhiều mâu thuẫn sâu sắc. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam càng làm cho những mâu thuẫn đó sâu sắc thêm. Vì vậy mà khó khăn và tai họa ngày càng chồng chất. Động viên được một nguồn tài chính cho cuộc chiến tranh này thì phải tăng thuế, lạm phát, giảm bớt “kế hoạch xã hội vĩ đại”, giảm bớt chi phí cho hệ thống căn cứ quân sự ở nước ngoài, giảm bớt “viện trợ” cho nước ngoài, giảm bớt xuất khẩu tư bản, làm tăng thêm con số thiếu hụt trong cán cân thu chi quốc tế, làm tăng thêm nguy cơ của đồng đô la v.v… Dựa vào chi phí chiến tranh để tạo ra một sự thịnh vượng thời chiến và bảo đảm cung cấp vũ khí và phương tiện vật chất cho chiến tranh thì lại đào sâu thêm hố ngăn cách giữa năng lực sản xuất và sức mua của quần chúng nhân dân, làm tăng thêm nguy cơ khủng hoảng kinh tế, làm tăng thêm tính chất không cân đối của nền kinh tế quốc dân, làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Mĩ trên thị trường quốc tế, dẫn đến việc kiểm soát giá cả, tiền lương và tín dụng, v.v… Bảo đảm được tuyến hậu cần thì đội tàu buôn vốn đã yếu lại càng giảm bớt khả năng cạnh tranh trên mặt trận hàng hải quốc tế, bệnh “chảy máu vàng” càng có nguy cơ tăng lên do việc thuê tàu nước ngoài, bộ máy hậu cần phình to lên khiến cho tuyến hậu cần vốn đã căng thẳng lại càng thêm căng thẳng, v.v… Những khó khăn và tai họa nói trên lại là nguồn gốc đẻ ra bao nhiêu khó khăn và tai họa khác, về tài chính, kinh tế cũng như về chính trị, quân sự cũng như tạo thành một mối đe dọa đối với toàn bộ đời sống kinh tế và xã hội của nước Mĩ tư bản chủ nghĩa. Trước đó những khó khăn và tai họa này, khả năng giải quyết vấn đề tài chính, cung cấp và vận tải của đế quốc Mĩ rõ ràng bị hạn chế.

“Chiến lược toàn cầu” của đế quốc Mĩ, vai trò sen đầm quốc tế, chính sách chạy đua vũ trang và chuẩn bị chiến tranh hạt nhân tổng lực của nó, tóm lại là âm mưu bá chủ thế giới của nó cũng làm cho đế quốc Mĩ xuất hiện như một lực lượng có hạn trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Lực lượng tài chính và vật chất cũng như lực lượng quân sự của nó bắt buộc phải rải mành mành ra khắp thế giới. Nó không thể nào bỏ trống những mặt trận khác trong cái thế giới thù địch với nó để tập trung toàn lực vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mĩ không thể đưa cả cái ngân sách quân sự, dốc hết cái kho vũ khí và dự trữ chiến lược, dồn cả đội tàu biển vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đế quốc Mĩ là một tên khổng lồ, nhưng là một tên khổng lồ bị căng nọc ra khắp thế giới: Vì vậy, ở bất cứ một điểm nào, nó cũng chỉ là một lực lượng có hạn.

Cuộc chiến tranh ở xa hậu phương làm cho đế quốc Mĩ tiêu hao rất nhiều lực lượng trước khi bước vào cuộc chiến đấu thực sự, đồng thời hạn chế rất nhiều việc phát huy tiềm lực kinh tế cũng như tiềm lực quân sự của nó. Chỉ riêng tuyến vận tải dài 8.000 hải lý đã ngốn mất mấy tỉ đô la trong ngân sách quân sự hàng năm, thu hút mất 3/4 lực lượng vận tải hàng không và 1/2 đội tàu vận tải quân sự, giam chân một bộ phận quan trọng đội tàu buôn của nó, chưa kể đến một bộ máy hậu cần đồ sộ. Sự lúng túng và bế tắc kéo dài trên tuyến hậu cần đã kìm hãm tốc độ và quy mô tăng quân của nó vào miền Nam Việt Nam.

Mới đưa 20 vạn quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam, và tiến hành cuộc chiến tranh “cục bộ” chưa đầy một năm, mà đế quốc Mĩ đã cảm thấy lúng túng vì những chỗ yếu cơ bản của nó như thế. Đưa 30 – 40 vạn quân vào miền Nam Việt Nam và theo đuổi cuộc chiến tranh “cục bộ” kéo dài nhiều năm thì những chỗ yếu cơ bản này sẽ càng bộc lộ hơn nữa. Và đây mới chỉ là nói về mặt tiềm lực kinh tế. Về mặt chính trị và quân sự, lực lượng của đế quốc Mĩ còn mỏng hơn nhiều.

Ngay trong giới cầm quyền Mĩ, không ít người đã phải công khai thừa nhận tính chất có hạn về lực lượng của chúng. Phunbơrai, chủ tịch Ủy ban đối ngoại thượng nghị viện Mĩ, trong cuộc tranh luận về cuộc chiến tranh ở Việt Nam với Mắc Namara ngày 3-3-1966 đã quả quyết rằng: “Cuộc chiến tranh đó làm cho Mĩ yếu đi. Nó là một gánh nặng lớn cho nước Mĩ và tôi thấy chúng ta không thể nào tiến hành cuộc chiến tranh mà không phải trả bằng một giá rất cao”. (AFP, ngày 3-3-1966).

Thượng nghị sĩ Gơruninh, ngày 26-8-1965, khẳng định với Giôn-xơn rằng: “Rõ ràng đó là một cuộc chiến tranh mà chúng ta không thể thắng được và tiếp tục thì sẽ dẫn tới những tai họa ngày càng lớn hơn” (AP, ngày 26-8-1965).

Thượng nghị sĩ Sớcsơ, trong bài diễn văn đọc tại trường đại học Xtenphớt, bang Caliphoócnia, ngày 21-1-1966, nói: “Không một nước nào, ngay cả nước Mĩ có thể có một kho vũ khí hoặc ngân sách to lớn nào để dập tắt những ngọn lửa cách mạng đang âm ỷ ở khắp thế giới đang thức tỉnh”.

Trên tờ Luận đàn Nữu Ước, ngày 26-1-1966 Oan-tơ Líp-man, nhà binh luận nổi tiếng được giới cầm quyền Mĩ hết sức coi trọng nhận định: “Chúng ta không phải là những người am hiểu mọi thứ trên đời và hùng mạnh không ai địch nổi cho nên chúng ta không thể khi nào cũng thắng được”. Và ông đòi tổng thống Mĩ “sửa chữa sai lầm để kết liễu một cuộc chiến tranh không thể thắng bằng bất cứ giá nào, để giảm bớt những thua thiệt trước khi đi đến tình trạng phá sản”.

Tóm lại, tiềm lực kinh tế mà đế quốc Mĩ có thể huy động vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta tuy lớn nhưng có hạn và ngày càng suy yếu. Sự hạn chế đó là sự hạn chế có ý nghĩa “chiến lược” về phía địch (vẫn chỉ là nói riêng về mặt kinh tế). Lấy tiềm lực ngày càng lớn mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân để đọ sức với tiềm lực có hạn và ngày càng suy yếu của bọn xâm lược, nhất định dân tộc ta sẽ dành được thắng lợi cuối cùng. Thực tiễn của cuộc chiến tranh đã và đang chứng thực một cách sáng ngời chân lý đó, về mặt chính trị, quân sự, cũng như về mặt kinh tế.

  1. Những phương tiện tài chính và vật chất mà đế quốc Mĩ ném vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta đem so với những phương tiện tài chính và vật chất mà nhân dân ta sử dụng thì rõ ràng lớn hơn nhiều; tuy nhiên, tác dụng của chúng trên chiến trườngthì lại không tạo thành một sự so sánh lực lượng tương ứng. Ở đây, quan điểm chỉ nhìn vào số lượng để rút ra kết luận về sự so sánh lực lượng là một quan điểm hoàn toàn sai lầm. Sở dĩ như vậy, ít nhất là vì hai lẽ:

Thứ nhất, phải kể đến những “hư phí” gần giống như những hư phí theo nghĩa kinh tế học. Đế quốc Mĩ chi ra hàng chục và hàng chục tỉ đô la cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhưng có biết bao nhiêu tỉ đô la trong số đó phải rải ra trên đường đi đến Việt Nam! Nói một cách khác trước khi trở thành những phương tiện chiến đấu thực tế trên chiến trường thì lực lượng tài chính và vật chất của đế quốc Mĩ đã bị tiêu hao đi một bộ phận quan trọng, bộ phận này không đóng một vai trò gì trong sự so sánh lực lượng trên chiến trường, trong khi ấy nó vẫn là một gánh nặng cho nền kinh tế Mĩ.

Người ta cũng có thể liệt kê vào mục “hư phí” một bộ phận lên tới hàng tỉ đô la trong khoản chi tiêu dành cho bọn lính “công tử” Mĩ. Sự tiêu xài tốn kém của bọn này  về tiền lương, về phương tiện sinh hoạt và một phần về trang bị và dụng cụ chiến tranh  không hề làm cho bàn cân lực lượng của Mĩ nặng thêm lên. Chính một viên tướng Mĩ  tướng Mích-se đã nói về quân đội Mĩ: “Nuôi nó rất tốn nhưng sức chiến đấu của nó lại tồi”. Tất nhiên đối với bọn trùm xâm lược Mĩ thì những khoản chi phí tốn kém cho bọn lính đánh thuê của chúng được coi là những “chi phí cần thiết”, ít ra thì cũng cần thiết để chống đỡ sự suy sụp về tinh thần của bọn này. Chẳng thế mà Giôn-xơn lại vừa mới ký một sắc lệnh (ngày 21-8-1965) tăng lương hàng năm cho lính Mĩ trên 1 tỉ đô la. Người ta biết rằng năm 1963, bọn cầm quyền Mĩ đã từng tung ra khoản tiền tương tự để tăng lương cho binh lính. Lần này, với trên 1 tỉ đô la lương bình quân của binh lính Mĩ sẽ tăng 10,7% nữa, nếu kể riêng bọn sĩ quan thì tăng 29%. Giôn-xơn nói rằng việc tăng lương này “có thể hấp dẫn và duy trì được những nam nữ công dân xuất sắc trong hàng ngũ quân đội” (UPI, ngày 22-8-1965). Nói trắng ra, vì cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam “đang ngốn rất nhiều nhân lực, đang nạo vét đến đáy chiếc thùng nhân lực của Mĩ” cho nên bọn lái buôn chiến tranh phải đẩy giá thịt của thanh niên Mĩ cao lên.

Trong tổng số hàng chục tỉ đô la ném vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, có bao nhiêu tỉ đô la thuộc loại “hư phí” như trên? Điều mà chúng ta biết chắc là: sức mạnh trên chiến trường của đế quốc Mĩ không bao giờ được đo bằng những “hư phí” ấy.

Lẽ thứ hai nằm trong bản thân khái niệm chiến tranh. Trong chiến tranh, lực lượng vật chất là một trong những yếu tố quyết định thắng bại, nhưng không phải là yếu tố quyết định nhất. Yếu tố quyết định nhất trong chiến tranh bao giờ cũng là yếu tố con người. Bản thân lực lượng vật chất cũng phải thông qua sự vận dụng của con người mới phát huy được tác dụng trong chiến tranh. Vì vậy, một lực lượng vật chất tương đối mạnh có thể trở thành tương đối yếu, và ngược lại. Lịch sử chiến tranh đã từng chứng kiến nhiều trường hợp như vậy.

Mặt khác, trong chiến tranh, yếu hay mạnh đều là tương đối, yếu hay mạnh đều chỉ là kết quả của một cuộc đọ sức cụ thể trong đó chỗ mạnh của bên này có thể bị lực lượng và nghệ thuật của bên kia hạn chế hoặc làm cho tê liệt. Nói chung đối với lực lượng quân sự là như vậy. Nói riêng đối với lực lượng vật chất sử dụng trong chiến tranh lại càng như vậy.

Bọn cầm quyền hiếu chiến Mĩ nuôi ảo tưởng rất lớn về những lực lượng vật chất của chúng. Chúng tưởng rằng với hàng chục tỉ đô la và hàng chục triệu tấn dụng cụ chiến tranh, chúng có thể dễ dàng đè bẹp được nước Việt Nam chậm phát triển về kinh tế. Điều mà chúng quên không tính đến yếu tố chính trị, yếu tố con người là cuộc chiến tranh phi nghĩa về phía chúng và cuộc kháng chiến thần thánh ngày càng khơi lên mọi nguồn lực tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, là tinh thần bạc nhược của quân đội “công tử” của chúng như của đội quân ngụy rã rời của chúng và tinh thần dũng mãnh kiên cường của cả một dân tộc, là kỹ thuật quân sự tư sản bất lực của chúng và khoa học quân sự đầy sức sáng tạo của nhân dân Việt Nam, là một chiến trường xa lạ thù địch hoàn toàn bất lợi đối với chúng và những điều kiện chiến đấu quen thuộc trong đó lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vùng vẫy như cá ở trong nước, là tình trạng cô lập thảm hại của chúng ngay trong nước Mĩ và trên toàn thế giới, là sự ủng hộ nhiệt tình về tinh thần cũng như về vật chất của cả phe xã hội chủ nghĩa hùng cường và của cả nhân dân toàn thế giới đối với dân tộc Việt Nam đang giương cao ngọn cờ quyết thắng trên tuyến đầu chống Mĩ. Sự tổng hợp và tác động qua lại của những nhân tố nói trên làm cho sức mạnh vật chất của nhân dân Việt Nam tăng lên theo cấp số nhân cùng một lúc với việc làm giảm hiệu lực và tiêu mòn những lực lượng vật chất to lớn trong tay đế quốc Mĩ. Điều đó giải thích vì sao lực lượng vật chất to lớn trong tay đế quốc Mĩ, xét về mặt giá trị thì to lớn hơn hàng chục, thậm chí hàng trăm lần những lực lượng vật chất của nhân dân ta, nhưng vẫn bị nhân dân ta đánh bại. Sự thất bại của lực lượng không quân Mĩ là một thí dụ.

Khi một cái kho vàng là kho vũ khí đồ sộ của Mĩ bị vơi đi một cách đáng sợ cùng một lúc với những thất bại nặng nề của chúng trên chiến trường thì cái ảo tưởng về những lực lượng vật chất của chúng bắt đầu tan vỡ.

Tờ Ngôi sao buổi tối Hoa-thịnh-đốn, ngày 18-12-1965 thừa nhận: “Chúng ta chưa bao giờ đánh nhau trong một cuộc chiến tranh khó khăn như thế này. Binh sĩ của chúng ta phải đối phó với một kẻ thù khi ẩn khi hiện trên một mảnh đất khó khăn không thể tưởng tượng được. Ở đây vấn đề con số vũ khí và những vũ khí hiện đại nhất không phải là nhân tố quyết định”.

Cái gương tày liếp của “ông anh cả” cũng làm cho bọn cáo già Anh phải suy nghĩ. Nghị sĩ Mêhiu trong cuộc tranh luận với bộ trưởng quốc phòng về chính sách quốc phòng của Anh, đã đưa ra một bằng chứng không thể chối cãi được: “Việt cộng chẳng có vũ khí hiện đại gì, thế mà họ vẫn cầm chân được một số lớn lính Mĩ đấy!” (AP ngày 20-2-1966).

Và con người Việt Nam  con người đã “làm cho thế giới phải kinh ngạc,nước Mĩ phải hãi hùng” trong cuộc đọ sức không cân xứng với nước đế quốc giàu mạnh nhất thế giới  ngày càng xuất hiện trước dư luận tư sản Mĩ như những anh hùng vô song của thời đại:

“Chúng ta đang phải đương đầu với quân du kích tài tình nhất, chưa từng thấy trong lịch sử loài người” (Rút-xen, chủ tịch Uỷ ban quân lực thượng nghị viện Mĩ  Roi-tơ, ngày 23-7-1965).

“Quân du kích Việt cộng là một nhân vật thần thoại biến hóa như ma quỷ trong cuộc chiến tranh ở thế kỷ 20 này. Quân du kích nòng cốt Việt cộng là một kẻ thù đáng sợ, một kẻ thù mà người ta phải sợ và kính phục” (UPI, ngày 23-4-1964).

“Quân du kích Việt cộng là những người vĩ đại nhất, tài tình nhất trong lịch sử loài người” (Tin tức Mĩ và thế giới, ngày 6-9-1965).

“Tôi thành thật khen ngợi tinh thần chiến đấu của Việt cộng trong trận đánh kéo dài ở Plâyme. Nếu tôi có được 100 người như vậy, tôi có thể quét sạch cả nước này” (Bớc-cơ-uýt, thiếu tá Mĩ – AP, ngày 31-10-1965).

Và đây là ý kiến của viên tư lệnh Mĩ chỉ huy chiến đấu ở Nam Việt Nam mà Giôn Uylơ, Uỷ viên ban biên tập hãng thông tấn AP trích dẫn: “Quân đội Mĩ đóng vai trò như một võ sĩ hạng nặng gần như mù mà bị đẩy vào nơi đấu võ lạ lùng, đầy cạm bẫy và vật chướng ngại. Còn đối thủ của họ là một võ sĩ hạng nhẹ, tinh khôn già kinh nghiệm và có mắt ở đằng sau đầu”. (AP, ngày 14-2-1966).

Sức mạnh thần thoại của con người Việt Nam chính là ở chỗ nó mang sức sống bất diệt của cuộc chiến tranh nhân dân, cuộc chiến tranh đã từng lập được kỳ công dưới ngọn cờ của Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên, dưới ngọn cờ của Lê Lợi và Nguyễn Trãi chống quân Minh, dưới ngọn cờ của Nguyễn Huệ chống quân Thanh, để ngày nay phát triển dưới đỉnh cao của thời đại dưới ngọn cờ của chính đảng Mác – Lênin quang vinh.

Bằng những thắng lợi rực rỡ và nguồn sống mạnh vô tận của mình, cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mĩ xâm lược đã khẳng định sự thật lịch sử sau đây:

ĐẾ QUỐC MĨ GIÀU NHƯNG KHÔNG MẠNH