Thầy trò HUBT – Niềm tin và kỳ vọng
Đánh giá cao vai trò của người thầy với sự phát triển của một trường dân lập Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội, tiền thân của Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội (HUBT) sau này, Giáo sư Hiệu trưởng Trần Phương đã nhắn nhủ, gửi gắm tình cảm, sự tin yêu và hy vọng vào sự nghiệp “trồng người” của các thầy cô giáo và cán bộ quản lý nhà trường trong ngày mở trường (15-6-1996) rằng: “Năng lực cùng cực thì trị nước được. Khi có được mẹ của nước (Đạo) thì có thể trường cửu. Đó là cái rễ sâu, cái nền bền, cái Đạo trường sinh. Muốn có Đạo, phải Học. Học làm người. Học “trồng người”. Lời “Nhập môn” như thế để lại cho chúng tôi dấu ấn đậm nét bới cái tâm trong, cái trí sáng và cái đức dầy của Giáo sư.
Với sinh viên, Giáo sư ân cần căn dặn cái Cần và Đủ trong việc dưỡng trí, tu thân để trở thành hiền tài quốc gia: “Thầy giáo của anh có thể dắt anh đến cửa; đạt được sự học là việc tùy thuộc vào mỗi ngưòi”. Từ mục đích trên, Ông nói một cách ngắn gọn, có ba mục tiêu:
“Một: phải hiểu. Hiểu tất cả những môn khoa học có liên quan đến nghề của mình. Hiểu càng sâu càng rộng thì càng tốt. Hiểu đến mức tự thuyết phục mình, tin ở những điều mình hiểu, mình học, suy luận và hành động, theo những điều mình hiểu, mình học. Hiểu đến mức có thể thuyết phục người khác theo những điều mình hiểu, mình học”.
“Hai: phải nhớ. Nhớ ngay trong quá trình nghe giảng và tự học. Có hiểu mới nhớ được. Không ai nhớ được hết tất cả những gì mình đã học. Nhưng, tất cả những gì cần cho sự suy luận, lập luận, tranh luận, lý giải, thuyết phục, đàm phán, quyết định của chính mình thì đều phải nhớ. Không cần giở sách ra vẫn nhớ. Điều đó có nghĩa là biến tất cả những điều cần cho mình thành vốn hiểu biết của chính mình, thành tài sản riêng của mình, thành bản lĩnh riêng của mình”.
“Ba: phải vận dụng. Mục đích của học tập, suy cho cùng, là để vận dụng những kiến thức và kỹ năng đã học vào cuộc sống. Học là để hành. Nếu học mà không hành thì học trở thành vô nghĩa, không có mục đích. Tập suy luận và phân tích theo phương pháp lô gich biện chứng, tập giải các bài toán kinh tế và tài chính, tập viết luận văn, tập thuyết trình, tập xử lý các tình huống, tập phân tích các hiện tượng kinh tế – xã hội – đó chính là bắt đầu vận dụng các kiến thức và kỹ năng vào cuộc sống”.
Phải hiểu, phải nhớ và phải vận dụng là ba trụ cột Khai dân trí, Chấn dân khí và Hậu dân sinh mà chí sí yêu nước Phan Châu Trinh đã khái quát khi Người kêu gọi dân tộc phải “xúc cảm thần thánh” cho việc học hành khai mở quốc dân.
Những điều căn dặn trên của Ông thật súc tích, dễ nhớ, dễ làm, dễ thực hiện. Điều ấy chỉ có thể tìm thấy ở người thông tuệ. Ông dạy “ý ăn, ý ở “, cái cách học và cái cách xử thế trong chuyên môn mà đạt tới sự thấu đáo và thông tuệ do mẫn cán của mỗi người mà nên. Ông đã đặt niềm tin và sự kỳ vọng vào thế hệ trẻ hôm nay của một trường dân lập. Rõ ràng rằng trường có trở nên tươi đẹp hay không, thầy trò trường dân lập có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các trường trong nước được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của sinh viên và công giáo dục của các thầy cô.
Với sinh viên tốt nghiệp Khóa 1 và Khóa 2 (12-2001), Giáo sư nói những điều thiết thực “làm người cán bộ”, “làm nhà quản lý kinh doanh”: “Các bạn phải hòa nhập vào các hoạt động của kinh doanh như một nhà quản lý kinh doanh thực thụ. Trong tương lai, các bạn có thể phát triển tài năng của mình theo hướng quản lý doanh nghiệp. Các bạn hãy vững tâm và tự tin ở mình!” và “Bể học là vô cùng. Một đời người, không ai chinh phục được hết kiến thức mà nhân loại đã sáng tạo ra”. Với nét mặt tươi tắn, ngôn từ khúc chiết, Ông căn dặn các cậu Cử, cô Cử: “Bốn năm đại học thực ra mới chỉ tập trung được vào việc trau dồi kiến thức và kỹ năng, tập dượt tư duy khoa học, còn việc rèn luyện phẩm chất đạo đức thì phải nói thẳng ra rằng chưa làm được bao nhiêu”.
Giáo sư nhấn mạnh: “Giáo dục là nghệ thuật biến con người thành có đạo đức”, “bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Những tư tưởng ấy của Ông đi suốt cùng năm tháng với thầy trò chúng tôi gần ba thập kỷ qua. Chúng tôi, qua giảng dạy và hoạt động thực tiễn và thiện nguyện trong cộng đồng, thầy trò và cán bộ, công nhân viên nhà trường luôn tâm nguyện mức cao nhất có thể đạt được của văn hóa đạo đức, tự biến đổi phù hợp với điều kiện xã hội – chính trị của một nhà trường tư thục không vì mục đích lợi nhuận. Với giáo lý của Ông “muốn xây dựng trường lớn mạnh, trước hết phải phát triển con người sinh viên toàn diện; muốn quản lý tốt, phải trọng dụng người tài; muốn tới đài vinh quang sánh vai với các trường trong nước phải coi trọng tự do, dân chủ, cảm hứng và sáng tạo, biết tôn trọng những ý tưởng và hoài bão lớn”. Cách hành xử ấy, tư duy lớn ấy của Ông khiến chúng tôi có chung một cảm nhận là: Định mệnh của các thế hệ tương lai nằm trong nền giáo dục khôn ngoan, một nền giáo dục cần phải phổ cập để có thể có ích lợi cho xã hội. Lợi ích đó là: “Làm giáo dục không phải để kiếm tiền, làm giàu, mà làm giáo dục để nâng cao dân trí, để cho mọi con em của đất nước này có cơ hội được học hành”.
Riêng cá nhân tôi, tôi rất thích câu nói của Ông trong một lần tháp tùng Ông tiếp các thượng khách nước ngoài, mà nhờ đó, tôi lớn lên nhiều: “Đừng bao giờ từ bỏ những gì các bạn muốn làm. Người bình thường với những giấc mơ vĩ đại luôn mạnh mẽ hơn một người chỉ biết đến thực tế giáo điều”.
Lời khuyên cho một cách học
Xưa Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh giáo dục phải dạy cho người học cách tự học, học tập suốt đời, “lấy tự học làm cốt”, “Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được”. Nay, Giáo sư Trần Phương cũng luôn nhắc nhở thầy trò chúng tôi cần biết cách tự chăm lo cho mình thấu đáo về tư duy, về tư tưởng, về năng lực và kỹ năng nghề, nhất là kỹ năng giao tiếp, làm cho người ta hiểu mình, làm cho người nghe tin mình để mà mở rộng “bạn hàng, đối tác”, để mà xây dựng “thương hiệu cá nhân”. Ông nhấn mạnh giá trị thương hiệu cá nhân góp tạo nên thương hiệu của một trường và Ông nói vui: “Made in HUBT”.
Để quán triệt môn học, ngành học hay một vấn đề, Ông nhắc nhở từng chi tiết: “Giáo trình hay sách giáo khoa chỉ là bản tóm tắt những điều cốt yếu và hệ thống những điều cốt yếu, giúp các bạn dễ dàng nắm bắt được cái cốt lõi của môn học, dựa vào đó mà lần lượt tái hiện cả cánh đồng khoa học mà mình đã đi sâu tìm hiểu, tái hiện lại theo từng bộ phận cấu thành của nó”. Cụ thể hơn, dẫn dắt từng bước đi vào ngõ ngách chuyên môn sâu trong quá trình tự cải biến mình: “Trở thành chuyên gia về nghề, đó phải là một quá trình tự cải biến mình, tự cải tạo mình, tự đổi mới mình, tự rèn luyện mình về kiến thức và kỹ năng, về tư duy và tay nghề, về đạo đức và phẩm chất. Học là để nhằm mục đích đó”. Vâng, từ kinh nghiệm rèn chí tu thân để đạt tới sự thông tuệ, thấu đáo, mẫn tiệp, Ông căn dặn: “Quá trình tự cải biến này phải diễn ra bên trong mỗi con người, thông qua tự học, tự nghiên cứu, tự rèn luyện”. Rõ ràng rằng, sự học mà Giáo sư răn dạy như thế là mức cao nhất có thể đạt được của văn hóa đạo đức và giáo dục đạo đức. Cách tốt nhất đó là để dạy đạo đức trong nghề và trong cách hành xử giữa con người với con người, giữa thầy với thầy, giữa trò với thầy, giữa trò với trò. Đó là chuyện đạo và đời. Đó là chuyện dạy làm người và học làm người mà GS Hiệu trưởng đã dày công vun đắp.
Được làm việc cùng Ông, được nghe Ông giảng giải, dẫn dụ, đàm thoại về công việc dạy lễ và dạy văn, chúng tôi càng nhận ra tư tưởng về giáo dục của Ông đã mang tính đi trước, mở đường, mang tính thời đại – trường đại học cho con em nhân dân với mức học phí “chịu được”. Nhiệm vụ của chúng tôi, dưới luân lý giáo dục của Ông, là tạo nên những thế hệ công dân có tri thức, có đạo đức, biết tự học, tự trang bị kiến thức, kỹ năng. Bởi thế, Trường coi trọng việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có chuẩn về tri thức, năng lực, kỹ năng nghề, kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm cùng hợp tác, cùng liên kết, cùng chung sống, đạt chuẩn công dân toàn cầu. Hiện thực hóa chiến lược đào tạo, Giáo sư coi trọng nền giáo dục hiện đại, được đầu tư bài bản và có chiều sâu về chương trình đào tạo, về giáo trình quốc tế, hợp tác giáo dục, liên kết đào tạo với nhiều quốc gia trên thế giới.
Vâng, đi theo Ông, chúng tôi đã tìm thấy chính mình trong luân lý “Giáo dục – Tự do – Dân chủ – Sáng tạo” để làm nên thương hiệu Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội thời khắc vàng hôm nay. Theo Ông, chúng tôi ý thức một điều là, giáo dục không phải là dạy cách kiếm sống hay cung cấp công cụ để đạt được sự giàu có, mà đó phải là con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái Chân và thực hành cái Thiện (ý tưởng của Ngài V. L. Pandit). Cái sâu lắng trong tâm hồn chúng tôi là những lời ôn hòa mà chan chứa ngọt ngào và trách nhiệm: “Khi xã hội đặt niềm tin vào chúng ta, thì chúng ta phải đáp ứng niềm tin đó, đừng phản bội niềm tin đó. Điều đó đặt lên vai chúng ta những trách nhiệm rất nặng nề”, và “Mỗi người trong hệ thống của chúng ta đều phải suy nghĩ xem mỗi việc của mình làm đã tận tụy chưa, đã hết lòng vì sự tiến bộ của sinh viên chưa? Đó là điều mà ngày Nhà giáo Việt Nam nhắc nhở chúng ta”.
Mỗi lời nhắn nhủ, răn dạy của Ông, chúng tôi tìm thấy từ Ông tiếng nói của niềm tin: “Khai dân trí – Chấn dân khí – Hậu dân sinh”.
Luật Giáo dục và sự thông tuệ của Giáo sư
Trong mọi “Gia sách”, “Gia lễ” và “Gia phong” của HUBT, Giáo sư luôn coi trọng giáo dục. Giáo sư nói nhiều lần trên giảng đường và trong các buổi họp toàn trường là Ông mong muốn tạo nên một xã hội văn minh, ở đó con người phải có tri thức, có đạo đức, văn minh, sống và làm việc theo pháp luật. Ông mong muốn xã hội HUBT của Ông là một xã hội như thế trước đã! Trong các bài khảo luận và chính luận, trong các bài phát biểu với sinh viên, với giảng viên, với cán bộ, nhân viên của trường, hay các buổi họp lớn, Ông đều nhắc tới một lời nói đầy ý nghĩa của N. Mandela: “Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới”. Và Ông đã thể hiện ý chí, nghị lực và sự thông tuệ của mình qua bài phát biểu tại Uỷ ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh, thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tổ chức Hội nghị lấy ý kiến về việc xây dựng Luật Giáo dục đại học, ngày 19 tháng 04 năm 2011. Sự thật là một tiếng chuông gióng giả và âm vang, lan tỏa rộng lớn trong ngành giáo dục Việt Nam.
Ông khẳng định theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục rằng: “Một nền giáo dục đào tạo ra những công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của người học”. Nhận diện chân lý đó, quán triệt tư tưởng đó, Ông khơi gợi và phát huy năng lực đó ngay chính tại HUBT do Ông sáng lập. Ngày nay, trường tư thục của Giáo sư cũng đang trên đà chuyển đổi mô hình giáo dục linh hoạt, đáp ứng nhu cầu của người học, có những mô hình học chuyên biệt để người học lựa chọn cho phù hợp năng lực, sở thích, sở trường của mình; mô hình giáo dục chuyên sâu.
Hơn bao giờ hết, những ý tưởng xây dựng một nền học vấn đại học ở Việt Nam lại được Ông trực tiếp góp ý. Những ý kiến thiết thực mang tính đi trước, mở đường, mang tính thời đại, thiết thực trước một xã hội trí tuệ nhân tạo hóa, một xã hội số hóa và công nghệ thông tin phát triển như vũ bão. Rõ ràng, một xã hội phát triển là một xã hội học tập. Xã hội càng phát triển, trí thức càng trở nên quan trọng như vậy, việc xây dựng một nền học vấn đại học phải hết sức thực tiễn, mang bản sắc nền công nghiệp và công nghệ 4.0 và 5.0 như các nước đã và đang phát triển.
Ông đưa ra một ý kiến tổng quan: “Chúng ta muốn phát triển đất nước thì giáo dục đại học còn phải vượt lên rất xa” (với những dẫn chứng xác đáng từ các số liệu quốc tế về tỉ trọng đào tạo đại học của các nước khu vực). Ông nhấn mạnh việc bứt phá về quy mô, tạo ra sự bứt phá vùng miền để gia tăng nguồn lực quốc gia, bắt đầu từ giáo dục đại học mở rộng theo bậc học: 2 năm, 3 năm và 4 năm nhằm thỏa mãn nhu cầu người học. trước tiên là con em nhân dân lao động. Để hiện thực hóa Luật Giáo dục, Ông nhắc nhở các nhà làm luật là phải hướng tới mục đích gì? Mục đích cần xác định rõ để tạo điều kiện người học đi học nghề tùy theo năng lực, tuỳ theo điều kiện. Để bình đẳng trong giáo dục, Ông thẳng thắn đề nghị “thống nhất lấy bằng trung học phổ thông làm chuẩn, bỏ kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng, bỏ ba chung, bỏ điểm sàn. Điểm sàn tưởng như là bình đẳng, nhưng trong đó lại bao hàm sự bất bình đẳng; bỏ điểm sàn rất có lợi đối với chính sách dân tộc, với chính sách vùng miền”.
Sự thông tuệ của Ông là biết quý những gì đang có, kể cả những thành công và những thất bại. Ông luôn nhấn mạnh với các đồng nghiệp: “Luôn biết trân trọng những giá trị của hoà bình, độc lập hôm nay” và “ Chúng ta phải biết làm gì nếu muốn đất nước đi tới phồn vinh và nền giáo dục sánh vai cùng các nước trong khu vực”. Rõ ràng rằng Ông luôn truyền cảm hứng cho những người khác để tất cả cùng đau đáu với vận mệnh của đất nước và số phận của dân tộc mình, trước nhất là chấn hưng văn hóa và giáo dục, kết hợp giáo dục truyền thông và hiện đại. Nền giáo dục đổi mới là một nền giáo dục khai phóng, tạo ra những bứt phá rộng lớn, địa phương và trung ương. Đấy là sự thông tuệ của Ông về tư tưởng giáo dục. Ông có lời cảnh tỉnh rằng: “Tư tưởng quản lý của ngành giáo dục quá cũ kỹ; giữ tư tưởng quản chặt quá nhiều”, “Những quy định quản lý hành chính mang tính quan liêu, không cho phép bung ra, thì cần loại bỏ”, “Tôi cho rằng Luật Giáo dục đại học lần này phải theo cái tư tưởng bung ra, để cho nước ta không lạc hậu về đại học nữa”. Và cụ thể hơn nữa: “Quyền tự chủ đầu tiên trong giáo dục đại học là quyền của các trường đại học thiết kế các ngành đào tạo và các chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu lao động theo biến động của thị trường”.
Bàn về chuyển biến này, tôi trộm nhớ tới lời nói tha thiết của cụ Phan Châu Trinh thuở trước: “Sự giải thoát của chúng ta nằm chủ yếu trong sự học hành, mở mang trí tuệ”.
Dưới góc độ một người lao động, chúng ta hoàn toàn có thể nâng cấp tri thức của mỗi người trong chính môi trường làm việc hàng ngày. Suy cho cùng, môi trường làm việc là nơi mà chúng ta có thể thực tế hóa tư duy, ý tưởng của mình thành sản phẩm có chất lượng cao. Vâng, mỗi tổ chức thành công đều sở hữu những cá nhân xuất sắc.
Như đã viện dẫn trên, chúng ta có thể thấy rõ tư tưởng của Ông về việc xây dựng một chính sách giáo dục khả thi hơn trong kỷ nguyên số hóa và trí tuệ nhân tạo. Đó là “chuẩn chính sách giáo dục”, “chuẩn lao động”, “độc lập – tự chủ” được nâng lên, tạo điều kiện cho mỗi công dân được bung tỏa, được cống hiến, thấy được động lực, tiềm năng phát triển trong tương lai, hiểu được ý nghĩa, giá trị của việc mình đang làm, đang cống hiến thì sự phát triển của nhà trường nói riêng, của đất nước nói chung là nằm trong tầm tay. Tóm lại, những ý kiến luận giải của Giáo sư là hiệu quả của chính sách giáo dục có sự hài hòa giữa lợi ích chung và nhu cầu cuộc sống của từng cá nhân./.