Khởi đầu công việc tại trường
Năm 1996, khi tôi đang công tác tại một cơ quan thuộc Ủy ban Khoa học – Kỹ thuật Nhà nước thì được điều động chính thức tham gia bộ máy quản lý mới hình thành của Trường Đại học dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội (HUMB) vừa được Chính phủ ra quyết định thành lập. Ban đầu, tôi được GS Hiệu trưởng Trần Phương giao giữ “chức” Trợ lý Hiệu trưởng về đối ngoại, trực tiếp giúp việc cho Thầy Vũ Tất Bội – Phó Hiệu trưởng phụ trách đối ngoại của trường. Sau một thời gian, do công việc hành chính tăng lên, tôi được giao thêm nhiệm vụ Phó phòng Tổng hợp với nhiệm vụ chính là Thư ký cho Hội đổng Quản trị, Ban Giám hiệu và xử lý một số công việc văn phòng, đồng thời tiếp tục công việc Trợ lý đối ngoại đã được giao từ đầu.
Khi trưởng thành lập tổ chức Đoàn Thanh niên, tôi được giao thêm nhiệm vụ Bí thư Ban chấp hành (BCH) lâm thời, sau đó tiếp tục được phân công tăng cường tham gia sinh hoạt với Khoa Tiếng Anh – một khoa “trọng điểm” của trường khi đó, để hỗ trợ nhóm Trợ lý ổn định công việc hành chính của Khoa.
Có thể nói, công việc của trường thời kỳ này rất bận rộn và nhạy cảm, vì trường mới thành lập, mọi thứ còn bề bộn, Hội đồng Quản trị/Ban Giám hiệu như một Chính phủ thu nhỏ (nhiều thành viên là cán bộ lãnh đạo cấp cao trong bộ máy nhà nước mới nghỉ hưu hoặc vẫn đang công tác), nên quan điểm còn phân tán, cán bộ, giảng viên chủ chốt đến từ nhiều cơ quan, đơn vị khác nhau và đa phần là các nhà khoa học có cương vị, uy tín, kinh nghiệm trong các lĩnh vực quản lý, nghiên cứu, đào tạo. Công việc mới được khởi động chưa vận hành ổn định (hoạt động trong tình trạng “vừa đánh trận vừa xếp hàng”), có rất nhiều vấn đề quan trọng cần phải được quyết định, giải quyết khẩn trương, đồng bộ, đòi hỏi sự quyết đoán, chuẩn xác và phải đạt được hiệu quả rõ ràng. Có thể xác định được hai yếu tố đặc biệt quan trọng đã giúp trường vượt qua giai đoạn “khởi nghiệp” đầy khó khăn ban đầu này là: (1) Có sự định hướng chỉ đạo, điều hành sáng suốt, hài hòa, kiên định của Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Hiệu trưởng GS Trần Phương, và (2) Tinh thần làm việc tuyệt vời của các cấp Lãnh đạo và cán bộ, giảng viên thể hiện qua tinh thần làm việc tự nguyện, tích cực, tâm huyết cống hiến hết mình, không quản công sức, thời gian, lợi ích (thậm chí hiệu ứng tích cực còn dẫn đến biểu hiện “tranh đua” ở một số bộ phận, mà nguyên nhân chủ yếu đều xuất phát từ mong muốn rất tích cực là được cống hiến, được khẳng định năng lực, vai trò, uy tín cá nhân để có đóng góp tốt nhất cho công việc chung của trường). Hòa chung vào khí thế, nhiệt huyết dâng cao của cán bộ, giảng viên, tôi cũng ngày đêm “dấn thân” vào công việc để cố gắng hoàn thành tốt nhất các nhiệm vụ được giao cho đến khi GS Hiệu trưởng cử phụ trách Đoàn sinh viên đầu tiên (gần 30 sinh viên Khóa 1) sang Hà Lan học năm cuối theo Chương trình hợp tác đào tạo Cử nhân các ngành Quản lý kinh tế (Chương trình 3+1) với Đại học Saxion University, đồng thời trực tiếp tham dự Khóa học Thạc sỹ khoa học của Chương trình châu Âu về Quản lý cơ sở vật chất tại Hà Lan và Anh (University of Greenwich). Năm 2000 học xong, tôi trở lại trường tiếp tục được giao làm Phó Chánh văn phòng. Năm 2001, tôi phải quay về cơ quan cũ, vì theo quy định, công chức nhà nước không được tham gia công việc bên ngoài.
Từ ngày đầu về trường làm việc, tôi vẫn xưng hô với GS Hiệu trưởng là “bác – cháu”, vì trong thời Pháp thuộc trước đây, bố tôi học cùng tại trường Bưởi với GS Trần Phương (sau 1 khóa). Tuy tôi là bậc con cháu, còn trẻ, nhưng GS Hiệu trưởng vẫn xưng hô rất thân tình, bình đẳng như khi làm việc với các cán bộ, giảng viên lớn tuổi khác (hoặc trực tiếp gọi tên tôi, xưng “mình”, hoặc khi làm việc nơi đông người người, thì dùng “cậu – tớ”).
Có thể nói, trong quá trình hoạt động say mê, gắn bó với trường khi mới thành lập còn rất nhiều khó khăn, phức tạp phải vượt qua, tôi đã có rất nhiều kỷ niệm, dấu ấn đáng nhớ về phong cách lãnh đạo và công lao của GS Trần Phương, mà tôi không thể kể lại hết một cách đầy đủ. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin chia sẻ một số kỷ niệm về GS Hiệu trưởng đối với hoạt động của Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên trong thời kỳ mới thành lập.
GS Trần Phương với hoạt động của Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên thời kỳ mới thành lập
Sang năm 1997, khi quy mô của trường đạt trên 1.500 sinh viên, Bí thư Đảng ủy, Phó Hiệu trưởng Nguyễn Mạnh Can đặt vấn đề thành lập Đoàn trường và có ý giao cho tôi kiêm nhiệm Bí thư (có thể do khi đó tôi là người trẻ nhất trong đội ngũ cán bộ có “chức sắc” của trường và có vẻ vẫn còn đôi chút “chất” thanh niên, cho dù đã gần 40 tuổi). Bác Can đề xuất với GS Hiệu trưởng, thì nhận được sự đồng thuận ngay. Ban đầu, GS Hiệu trưởng tỏ ý không nên thành lập Đoàn như kiểu một tổ chức chính trị thuần túy, mà nên là một tổ chức của sinh viên, là môi trường để sinh viên tự lực phát huy khả năng, sáng tạo, là “sân chơi” của sinh viên, không cần có sự can thiệp, quản lý từ cấp nào. GS Hiệu trưởng cũng gợi ý nên chọn sinh viên đứng đầu, vì “cậu” Khang còn có nhiều việc khác phải làm. Phải nói rằng đây là tư tưởng rất đúng đắn – tôn trọng và tin tưởng thanh niên, bảo đảm quyền tự chủ của tổ chức Đoàn. Sau khi hai Thầy bàn tính, thấy rằng việc thành lập tổ chức Đoàn trường vẫn cần phải theo thông lệ chung của hệ thống, trường cũng chưa có tổ chức thanh niên hoạt động có nề nếp để có thể giao ngay cho sinh viên tự quản lý, mặt khác, cần đảm bảo kết nối, quan hệ với Thành đoàn Hà Nội và Đoàn Khối các trường đại học, cao đẳng, nên GS Hiệu trưởng đã đồng ý để tôi kiêm nhiệm thêm chức vụ Bí thư BCH Đoàn trường (lâm thời), đồng thời nhắc tôi lựa chọn những sinh viên tích cực vào BCH lâm thời để khuyến khích họ tự lực hoạt động. Ông nhấn mạnh: “Hãy lãnh đạo tốt Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên là các tổ chức quần chúng của Đảng, phát huy vai trò tự quản của họ, tính năng động sáng tạo của họ, nhằm dấy lên phong trào học tập tốt và rèn luyện tốt trong sinh viên”.
Lĩnh hội được chủ trương, định hướng của GS Hiệu trưởng và Bí thư Đảng ủy, tôi đã nhanh chóng tìm hiểu và tập hợp được một số cán bộ, giảng viên còn trẻ, có tinh thần nhiệt tình cống hiến từ các đơn vị trong trường, như anh Nguyễn Tuấn Anh ở Khoa Kinh tế, chị Nguyễn Thị Kim Mai ở Khoa Tin học, chị Nguyễn Thu Hường ở Phòng Hành chính, và khoảng 10 lớp trưởng hoặc sinh viên có uy tín, năng nổ trong các hoạt động phong trào để đề xuất vào BCH. Tôi cũng đề xuất lựa chọn người và thành lập Hội Sinh viên trường để phát huy tính chủ động, năng lực của sinh viên trong phối hợp với các hoạt động của Đoàn trường (Chủ tịch Hội Sinh viên là một lớp trưởng Khóa 1 có uy tín). Sau khi được GS Hiệu trưởng chấp thuận và thực hiện các thủ tục cần thiết, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên Trường Đại học dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội đã được thành lập và bắt đầu phối hợp hoạt động theo mô hình “2 trong 1” (mọi vấn đề đều được bàn bạc thống nhất trong 2 tổ chức và cùng phân công, phối hợp thực hiện).
Thực tế cho thấy quyết định thành lập tổ chức Đoàn và Hội của trường vào thời điểm đó là thực sự phù hợp và kịp thời giúp tập hợp, định hướng, phát huy và triển khai có tổ chức các hoạt động phong trào của sinh viên trong trường. Với sự năng động sáng tạo của BCH Đoàn, Hội và sự hưởng ứng đặc biệt tích cực, nhiệt tình, sáng tạo, cởi mở của sinh viên, trước hết là sinh viên Khóa 1, cùng với khí thế được thúc đẩy bởi mong muốn thể hiện được “đẳng cấp”, vị thế của “nhân tố mới” trong Khối các trường đại học, cao đẳng, hoạt động phong trào sinh viên của trường đã bùng nổ mạnh mẽ và đạt được nhiều dấu ấn đáng tự hào khi tham gia các hoạt động Đoàn và phong trào sinh viên của Khối các trường đại học, cao đẳng Thành phố Hà Nội. Có thể tự hào nói rằng, cùng với uy tín của GS Trần Phương và của đội ngũ cán bộ, giảng viên lão thành, hoạt động phong trào sinh viên của trường cũng đã đóng góp một phần tích cực nâng cao danh tiếng của trường thông qua việc khẳng định được “vị thế” của sinh viên Trường Đại học dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội trong “giới” sinh viên các trường đại học tại Hà Nội thời kỳ đó.
Trong quá trình hoạt động của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên, do bận rất nhiều công việc quan trọng của trường, nên GS Hiệu trưởng thường không yêu cầu BCH Đoàn, Hội báo cáo tình hình hoạt động, mà luôn tin tưởng để BCH chủ động xây dựng, đề xuất nội dung và lập kế hoạch tổ chức triển khai các hoạt động. Tuy nhiên, GS Hiệu trưởng vẫn thường xuyên quan tâm theo dõi, hỏi han thông tin về tình hình, kết quả hoạt động của phong trào sinh viên và luôn nhắc Thầy Nguyễn Mạnh Can, Thầy Trần Công Bảy quan tâm chỉ đạo và tạo điểu kiện hỗ trợ tốt nhất cho hoạt động của Đoàn, Hội. Đối với các sự kiện quan trọng hoặc các buổi hội diễn lớn của Đoàn, Hội, GS Hiệu trưởng đều dành thời gian tham dự để động viên sinh viên, thậm chí nhiều lần còn đưa cả bác gái (bác Thủy) cùng rủ bác gái nhà Thầy Can tới tham dự hưởng ứng, tình cảm ấm áp gần gũi như trong gia đình, đặc biệt cảm động.
Mặc dù đã tổ chức nhiều hoạt động của Đoàn, Hội và đạt được những kết quả, thành công, nhưng vẫn còn một sự kiện quan trọng bị dở dang, mà đến tận bây giờ tôi vẫn chưa hết áy náy. Đó là vào khoảng mùa hè năm 1998, với không khí, tinh thần sinh viên đang dâng cao, nhiều Chi đoàn có đề nghị tổ chức cắm trại hè sinh viên. Khi nhận được thông tin, tôi hiểu đây là một ý tưởng rất tốt để thúc đẩy phong trào, nhưng cũng biết sẽ không đơn giản, khi tổ chức cắm trại tập trung cho hàng nghìn sinh viên. Tuy nhiên, lĩnh hội tư tưởng của GS Hiệu trưởng cần phải sẵn sàng tạo điều kiện cùng sinh viên vượt qua hoàn cảnh khó khăn để đạt được mục đích, tôi đã họp BCH Đoàn, Hội để bàn và lập tức nhận được sự tán đồng rất nhiệt tình. Tất cả đều hào hứng và nhất trí dù khó khăn cũng phải quyết tâm bằng mọi cách thực hiện. Tôi yêu cầu mọi người cùng nghiên cứu tìm hiểu địa điểm thích hợp để lên kế hoạch tổ chức thực hiện.
Ngay khi có thông tin đề xuất một số địa điểm, tôi cùng một số thành viên BCH đã hăng hái xuất quân đi kiểm tra một địa điểm gần nhất là một bãi cát ven sông Hồng thuộc phường Tứ Liên, quận Tây Hồ. Tôi vẫn nhớ khi đến nơi, một quang cảnh bao la, thoáng đãng hiện ra trước mắt mọi người. Đó là một bãi cát trắng mịn, bằng phẳng, cách ly với khu dân cư, rất rộng lớn, vững chắc do đã được bồi đắp trong nhiều năm. Lác đác một vài khóm ngô, ngọn cỏ may đu đưa theo gió, phía xa là dòng sông Hồng lượn vòng quanh ôm trọn bãi cát. Mọi người đều cảm nhận được ngay đây là một địa điểm đủ rộng và thích hợp cho hoạt động cắm trại. Sau khi đi kiểm tra sát phía bờ sông và xác định bãi cát thuộc bờ bên bồi, mép sông cát rất thoải và chắc chắn, không có hiện tượng xói lở, chưa vào mùa mưa nên nước chảy êm đềm, cảm giác rất yên bình, an toàn, tất cả đều nhất trí nên chọn địa điểm này, không cần đi kiểm tra thêm các khu ở ngoại thành xa nữa.
Sau khi về, BCH đã họp bàn kế hoạch, phân công công việc chuẩn bị tổ chức trại hè và cho thông báo quyết định chọn địa điểm và kế hoạch chuẩn bị trực tiếp tới các Lớp trưởng, Bí thư Chi đoàn. Lập tức một không khí háo hức, sôi động trào dâng trong sinh viên ở mọi nơi với niềm vui mừng, hào hứng mong chờ tới ngày cắm trại. Không khí hồ hởi đó đã làm tôi và BCH rất phấn khởi, nhưng cũng xen lẫn một chút lo lắng về trách nhiệm, nếu không đáp ứng được kỳ vọng của sinh viên. Chúng tôi hiểu rằng việc tổ chức trại hè là việc không thể trì hoãn, nhưng cũng là một sự mạo hiểm rất lớn, nếu thất bại, có thể ảnh hưởng tác hại tới phong trào (thực tế có một số Lãnh đạo Đoàn trường bạn và Thành đoàn Hà Nội biết chuyện có liên hệ khuyên tôi nên cân nhắc, vì qua kinh nghiệm thực tế chưa trường nào “dám” tổ chức với quy mô và địa điểm như vậy, thậm chí đã có những bình luận bên lề là “ý định điên rồ”,…). Tuy nhiên, dù vẫn còn đôi chút băn khoăn nhưng chúng tôi không thể lùi bước, không thể phụ lòng háo hức và sự trông đợi của sinh viên. Thêm nữa, tôi cũng thấy cần phải có chút “máu liều” mới có thể làm được điều gì đó khác thường để ghi một dấu ấn và tạo tiếng vang cho phong trào. Về phía trường, khi nghe tôi báo cáo kế hoạch, GS Hiệu trưởng không nói gì, mà gọi Thầy Lê Khắc Đóa tới yêu cầu đi thực địa kiểm tra thêm. Thầy Đóa đi khảo sát về, báo cáo tình hình địa điểm cắm trại đẹp, nhưng có băn khoăn lo lắng về vấn đề an toàn cho sinh viên do số lượng tham gia rất lớn, lại tổ chức cắm trại qua đêm. Khi GS Hiệu trưởng hỏi kỹ thêm về công việc chuẩn bị, tôi báo cáo kế hoạch dựa trên đề xuất của các lớp sinh viên, đã được BCH và các Lớp trưởng thống nhất, phân công công việc cụ thể, chỉ đang trông chờ Hiệu trưởng quyết định để triển khai. Về mặt an toàn, tôi báo cáo đã đến gặp chính quyền phường Tứ Liên xin phép được tổ chức trại hè trên địa bàn và đề nghị giúp hỗ trợ về an ninh, phường đồng ý và nói sẽ cử Đoàn Thanh niên phường, lực lượng công an, bảo vệ để hỗ trợ phía trong, giáp khu dân cư (không đảm nhận hỗ trợ an ninh trong hội trại). Tôi cũng báo cáo là về phía bờ sông, BCH thống nhất sẽ tăng cường bố trí lực lượng sinh viên tình nguyện lập hàng rào trực an ninh liên tục ngày đêm, mỗi lớp còn cử thêm một sinh viên tự quản để nhắc nhở mọi người. Về số lượng sinh viên, tôi báo cáo chưa nắm được chính xác, nhưng khả năng sẽ rất đông, do tất cả các lớp đều đăng ký tham gia. Sau một lúc trầm ngâm, GS Hiệu trưởng nói: “Được. Nếu các cậu đã quyết tâm, thì tổ chức làm đi”, đồng thời yêu cầu Thầy Đóa bố trí giáo viên chủ nhiệm hỗ trợ thêm cho các lớp và nhắc tôi phải phân công giám sát thật chặt chẽ về an ninh. GS Hiệu trưởng còn hỏi thêm về kinh phí đã được Thầy Bảy giải quyết thế nào, tôi báo cáo là Đoàn, Hội và các lớp đã thống nhất sinh viên sẽ chủ động tự chuẩn bị lều trại, đồ dùng, sau đợt cắm trại thành công, sẽ đề nghị trường khen thưởng sau (có ý sinh viên muốn thể hiện là hoạt động tự chủ).
Ngay khi được GS Hiệu trưởng đồng ý, tôi cảm thấy nhẹ người, vì đã nhận được sự ủng hộ, tuy hiểu rõ được đó là một quyết định không dễ dàng, có hàm chứa sự ủy thác, tin cậy và cả sự thử thách đối với tôi và tập thể sinh viên. Cho đến trước thời điểm đó, tôi và BCH Đoàn, Hội cứ hăng hái, vô tư lao vào triển khai các công việc chuẩn bị. Sau khi được phép, tôi mới thực sự cảm thấy gánh nặng về trách nhiệm là quá to lớn, nhưng đã ở vào thế “cưỡi hổ”, nên tôi chỉ có thể tự nhủ và nhắc mọi người phải bình tĩnh, tỉnh táo để giải quyết mọi việc cho suôn sẻ, dù vẫn có chút canh cánh trong lòng.
Vào ngày khởi sự, theo kế hoạch, bắt đầu từ đầu giờ chiều, sinh viên các lớp sẽ triển khai cắm trại theo từng khu vực. Ngay từ sáng đến trường, tôi cứ đi ra đi vào, tâm trạng không yên. Khoảng gần trưa, tôi gọi một số thành viên BCH Đoàn, Hội và mời Thầy Đóa cùng đi lên hiện trường. Tới nơi, đã thấy vài chục lều trại được cắm rải rác và rất nhiều sinh viên các lớp đang hối hả hoàn thành nốt công việc trước buổi trưa. Lác đác đã thấy có những bó củi được gác lên nhau trong tư thế sẵn sàng (dù theo phổ biến chỉ đốt lửa trại tập trung). Thời tiết rất đẹp, trời quang, mây tạnh, râm mát, sáng sủa, gió nhẹ. Khi thấy chúng tôi tới nơi mọi người reo hò rất rầm rộ. Có một cảm giác phấn chấn, cảm động khó tả dâng lên khi chứng kiến không khí chuẩn bị và hình dung tới hình ảnh toàn bộ lều trại đã tập trung đông đủ, lớp lớp sinh viên hân hoan quanh đống lửa trại rực sáng,…
Trong khi mọi người đang phấn khởi, đột nhiên có một cơn giông rất lớn bất chợt xuất hiện quét qua khu vực, cát bụi bay mù mịt, cuốn tung một số lều trại khiến sinh viên náo động, hò nhau neo giữ lều trại. Sự việc diễn ra rất bất ngờ và cơn giông cũng tan đi rất nhanh, nhưng lập tức làm tôi bừng tỉnh, trở lại với thực tế và tự nhiên có linh cảm là hình như “thần linh” vừa cảnh báo mình. Tôi nghĩ ngay tới các nguy cơ rủi ro và thấy cần phải dừng lại, vì quá nguy hiểm. Khi tôi đưa ra ý kiến, mọi người không ai nói gì, đều có cảm giác tiến thoái lưỡng nan, khó đành lòng khi đang chứng kiến không khí háo hức, với sự tâm huyết, nỗ lực của sinh viên. Sau khi suy nghĩ kỹ nếu xảy ra lốc tố lớn vào ban đêm, cộng thêm với một nỗi lo từ trước là nếu có sinh viên bị kích động nhảy xuống bơi tạo nên hiệu ứng tập thể thì không biết điều gì sẽ xảy ra với hàng nghìn sinh viên đang phấn khích. Tôi quay sang xin ý kiến Thầy Đóa và được Thầy thống nhất cần phải dừng lại ngay. Tôi thông báo cho mọi người là sẽ không tiếp tục chương trình cắm trại nữa và yêu cầu các lớp sinh viên thu dọn lều trại (công việc cần phải được thực hiện ngay trong lúc còn nhiều lớp chưa đến triển khai cắm trại).
Khi nhận được thông báo, một cảm giác thất vọng, buồn chán lan tỏa trong khu vực cắm trại. Các lớp sinh viên thay nhau kéo đến đề nghị, kêu nài cho được tiếp tục, thậm chí có rất nhiều bạn nữ đã ôm nhau cùng những giọt nước mắt khi biết phải hủy chương trình cắm trại đã được chuẩn bị với bao tâm huyết và đang chờ đón được tận hưởng niềm vui còn chưa bắt đầu. Tôi khi đó cũng thực sự rất đau lòng và xúc động nhìn tình cảnh sinh viên, nhưng vẫn ra sức khuyên các bạn sinh viên hiểu rằng cơn lốc vừa xảy ra là lý do buộc phải hoãn cắm trại để đảm bảo an toàn cho tất cả và hứa hẹn sẽ tổ chức lại. Việc vận động để sinh viên thu dọn lều trại kéo dài đến chiều muộn, rất may là sinh viên cuối cùng cùng hiểu được nguyên do và chấp hành (tuy nhiên sau đó vẫn có một số nhóm sinh viên vẫn tự quay trở lại bãi cát hoặc rủ nhau đi nơi khác cắm trại để tận hưởng thành quả đã tốn công sức chuẩn bị). Hôm đó, tôi trở về nhà muộn và đi ngủ với tâm trạng chập chờn, tự dằn vặt về quyết định của mình đã làm thất vọng bao nhiêu sinh viên; liệu mình có lo sợ, tưởng tượng quá mức về rủi ro để làm lỡ niềm vui, hạnh phúc của hàng ngàn sinh viên đã đặt niềm tin vào mình hay không?
Sang đầu tuần đến trường, thấy ngay một không khí ảm đạm bao trùm (sinh viên đi lại thầm lặng, vội vã, không còn thấy không khí rộn ràng, náo nhiệt như mấy hôm trước). GS Hiệu trưởng biết tin có hỏi ngay tôi và tôi đã báo cáo lại mọi tình tiết công việc (cũng không quên nói về “linh cảm” như một lý do biện minh cho quyết định không đi đến cùng của mình). Tôi cảm nhận đó là một thất bại lớn trong công việc và lúc đó chỉ muốn phát khóc vì đã không hoàn thành trách nhiệm với sinh viên, đặc biệt đã không đáp ứng được niềm tin và sự ủng hộ mà GS Hiệu trưởng đã dành cho mình. Dù cảm thấy không vui, nhưng GS Hiệu trưởng hiểu được tâm trạng của tôi, nên không hỏi gì thêm mà chỉ nói: “Thôi, nếu chưa làm được thì tìm cách mà làm lại” để vừa thể hiện sự an ủi, cũng vừa muốn động viên để giúp tôi vượt qua. Một điều an ủi nữa với tôi và BCH Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên là đã có rất nhiều sinh viên, dù buồn chán, đã đến gặp gỡ, bày tỏ sự thông cảm về quyết định khó khăn, nhưng cần thiết của BCH vì sự an toàn cho sinh viên. Phong trào sinh viên sau đó cũng bị ảnh hưởng, chững lại và đến khi tôi được GS Hiệu trưởng cử đi học xa, thì công tác Đoàn Thanh niên đã được chuyển giao cho thế hệ tiếp theo, nên không có cơ hội tiếp tục gắn bó và tìm cách thực hiện lại lời hứa với sinh viên. Chính vì vậy, câu hỏi “quyết định dừng lại khi đó có thực sự phải hay không?” vẫn còn đeo đẳng với tôi mãi sau này và mỗi khi nhớ lại cảnh các bạn sinh viên vừa âm thầm thu dọn lều trại, vừa đưa tay gạt những giọt nước mắt buồn tủi, tôi lại thấy mủi lòng, cảm thấy có lỗi, vì đã phụ lòng một thế hệ sinh viên tràn đầy nhiệt huyết đã đặt kỳ vọng vào mình, mà không có cơ hội sửa chữa (mong rằng các bạn sinh viên, dù đang ở nơi nào, hãy xin thấu hiểu và luôn nhớ về những kỷ niệm đẹp của phong trào thời đó nhé).
Câu chuyện trên đây tuy không chứa đựng quá nhiều nhiều sự kiện về GS Hiệu trưởng, nhưng đều là những dấu ấn rất đặc biệt, có ý nghĩa quyết định vào các thời điểm quan trọng đối với hoạt động tổ chức Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên thời kỳ đầu thành lập, thể hiện rõ nét về tầm vóc tư tưởng, quan điểm, định hướng của GS Hiệu trưởng đối với thế hệ trẻ. Ông luôn giữ vững nguyên tắc “phát huy vai trò tự quản và tính năng động sáng tạo của thanh niên”, để Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên phát huy dân chủ và độc lập suy nghĩ, tự tổ chức các hoạt động, đặt niềm tin lớn vào khả năng và ý chí vươn lên của các thế hệ sinh viên; nhưng mặt khác Ông luôn luôn dành sự quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ về vật chất, động viên về tinh thần, giao trách nhiệm cho các cấp phó thường xuyên theo dõi, giám sát và hỗ trợ kịp thời khi thấy đội ngũ cán bộ trẻ gặp khó khăn, lúng túng do chưa có đủ kinh nghiệm và tính quyết đoán khi gặp những sự cố bất thường.
Những cảm nhận về tầm vóc của GS Trần Phương
Trải qua 60 năm công tác phục vụ cách mạng cùng với gần 30 năm trực tiếp lãnh đạo xây dựng và phát triển Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, ngoài những dấu ấn chính thức đã được xã hội ghi nhận, GS Trần Phương vẫn còn rất nhiều kỷ niệm đẹp khác về cuộc đời và sự cống hiến, mà chỉ có bạn bè, đồng nghiệp cũng như các cán bộ, giảng viên, nhân viên và học viên, sinh viên có điều kiện làm việc gần gũi, học tập ở trường mới có thể cảm nhận, dù không dễ để viết hết ra được. Qua tìm hiểu cuộc đời hoạt động của GS Hiệu trưởng, cũng như những trải nghiệm đúc kết qua thời gian được làm việc trực tiếp, gần gũi với GS Hiệu trưởng trong quá trình hình thành, phát triển Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội và so sánh với nhiều tấm gương cùng thời kỳ, bản thân tôi nhận thấy có thể xem GS Hiệu trưởng là một trong những nhân vật đại diện tiêu biểu cho thế hệ của mình, thể hiện qua những phẩm chất ưu tú cơ bản như sau:
(1) Giáo sư là người sống có lý tưởng và sẵn sàng xả thân, hy sinh vì lý tưởng. Kể từ khi còn nhỏ cho đến khi lớn lên xông pha hoạt động, công tác, Giáo sư luôn thể hiện mong muốn, quyết tâm cống hiến vì sự công bằng xã hội, sẵn sàng hy sinh, đấu tranh cho tầng lớp người dân còn yếu thế, thiệt thòi (người dân quê bị kìm kẹp trong xã hội cũ; người nông dân, người lao động chưa được đối xử bình đẳng; cho đến tầng lớp học sinh, sinh viên ít có cơ hội, điều kiện được học hành, vươn lên…).
(2) Giáo sư là nhà lãnh đạo sáng suốt, nhà chiến lược tài ba, có tầm nhìn xa trông rộng. Trong quá trình công tác, Giáo sư luôn quan tâm, phát hiện các vấn đề chính sách chưa phù hợp để tìm tòi nghiên cứu, đề xuất hoặc áp dụng các biện pháp giải quyết tích cực (các vướng mắc trong hoạt động kinh tế, trong lưu thông hàng hóa, đặt nền móng cho việc áp dụng nguyên lý kinh tế thị trường,…). Đối với hoạt động đào tạo, Giáo sư đã có tầm nhìn chiến lược, khi xác định và thực hiện ý tưởng tập hợp, phát huy năng lực “dư thừa” của đội ngũ các nhà khoa học vào hoạt động đào tạo thế hệ trẻ, đồng thời đã đi trước thời đại khi xây dựng và phát triển thành công một hình mẫu trường đại học hoạt động không vì mục đích lợi nhuận để phát huy tối đa nguồn lực xã hội vào phục vụ sự nghiệp giáo dục – đào tạo.
(3) Giáo sư là một nhà khoa học, nhà lý luận sắc sảo, có khả năng tập trung cao độ và năng lực nghiên cứu rộng mở trong rất nhiều lĩnh vực khoa học. Trong quá trình công tác, Giáo sư luôn nhìn nhận, soi xét các khía cạnh của vấn đề trên quan điểm của một nhà khoa học để lập luận và đưa ra giải pháp có cơ sở khoa học trong giải quyết các vướng mắc về kinh tế vĩ mô, kinh tế thị trường. Trong quá trình thành lập trường, với năng lực nghiên cứu vừa bao quát vừa rất chuyên sâu của mình, Giáo sư đã tự mình xây dựng nên nền tảng pháp lý cho sự hình thành tổ chức và quản lý, vận hành mọi mặt hoạt động của trường, đã định hình và xây dựng khung kết cấu, nội dung chương trình đào tạo tổng thể, thậm chí trực tiếp tham gia xây dựng nội dung cụ thể của một số chuyên ngành đào tạo, mà cho đến nay, vẫn đảm bảo các yêu cầu chuẩn mực về giáo dục chuyên sâu.
(4) Giáo sư là một nhà quản trị khéo léo, quyết đoán và và kiên định. Với uy tín trong lĩnh vực quản lý và nghiên cứu khoa học của mình, Giáo sư đã tập hợp được một đội ngũ các nhà quản lý, nhà khoa học cao cấp để cùng tham gia thành lập trường đại học dân lập. Giáo sư đã xây dựng bộ máy, sắp xếp nhân sự và tổ chức điều hành quản lý hoạt động của trường vượt qua mọi khó khăn, trở ngại ban đầu của một tổ chức của tập hợp các “cây đa, cây đề” để tạo thành một tập thể thống nhất cùng chung tay xây dựng phát triển nhà trường. Với sự tự tin, tính kiên định và khả năng lý luận sắc sảo, Giáo sư luôn dùng kiến thức, lập luận để chứng minh cho các quan điểm đúng đắn được đề ra; đối với các vấn đề còn có nhiều ý kiến, Giáo sư thường tự đưa ra các câu hỏi phản biện liên quan để rồi dẫn dắt, lập luận phân tích hệ quả giúp mọi người tự nhận định, đánh giá, từ đó tạo được sự đồng thuận về nhận thức và tự giác trong tuân thủ đối với cả hệ thống, tạo nên sự nhất quán về tổ chức và hành động trong các mặt hoạt động đào tạo, phát triển, tài chính của trường. Ngoài ra, Giáo sư là một người rất thực tế, luôn nhìn thẳng vào vấn đề, luôn nhìn nhận và đề cao khả năng thực thi, thực hành và hiệu quả giải quyết công việc, coi đó là nền tảng để nâng cao hiệu quả hoạt động và giúp xã hội phát triển. Đó cũng là cơ sở đưa ra định hướng “đào tạo thực hành” cho sinh viên của trường.
(5) Giáo sư là một người có phong cách sống giản dị, gần gũi thiên nhiên và giàu lòng nhân ái. Sau khi nghỉ hưu, Giáo sư đã chuyển từ phố Tăng Bạt Hổ vể sống tại một khu vườn ven sông thuộc xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên, ngay sát cạnh đại công trình thủy nông Bắc – Hưng – Hải sôi động một thời. Sau khi trường đi vào ổn định, hàng tuần Giáo sư sang trường 2 ngày để trực tiếp giải quyết các công việc. Ngoài thời gian nghiên cứu viết tài liệu, văn bản về đường hướng gây dựng, phát triển trường, Giáo sư rất thích tự mình làm các công việc lao động đơn giản, như tưới cây quanh nhà, giúp bác gái chăm sóc vườn nhãn hàng trăm cây (hàng ngày chỉ có hai Ông Bà 70 tuổi sống trong một căn nhà gỗ, tự chăm sóc nhau). Có thể thấy mọi lúc, mọi nơi, Giáo sư luôn quan tâm chăm lo đến quyền lợi của người lao động, đặc biệt có sự thấu hiểu, thông cảm sâu sắc với cuộc sống của người dân ở các vùng nông thôn, nên đã luôn giành tâm sức tìm cách hỗ trợ cho các đối tượng còn chịu thiệt thòi. Tôi tin rằng, việc Giáo sư dành tâm huyết và quyết tâm thành lập Trường Đại học dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội một phần xuất phát từ ước nguyện muốn tạo điều kiện cho thế hệ trẻ ở các vùng còn khó khăn có cơ hội được học hành, vươn lên, thành công trong cuộc sống và có ích cho xã hội. Thực tế, chất lượng “đầu ra” của sinh viên đã được xã hội ghi nhận, trong đó đã có rất nhiều cựu sinh viên của trường đã dấn thân và trưởng thành trong nhiều lĩnh vực hoạt động, công tác, khẳng định được uy tín và đóng góp có ích. Giáo sư vẫn luôn thể hiện niềm hạnh phúc và tự hào khi nói về thành quả này của trường.
Lời kết
Trải qua gần 30 năm, GS Trần Phương cùng với một thế hệ lãnh đạo, cán bộ, giảng viên, nhân viên đã dành bao tâm huyết, công sức để xây dựng và phát triển, hình thành nên một ngôi trường đại học ngoài công lập có uy tín, với quy mô hàng nghìn người lao động, hàng chục nghìn sinh viên cùng hệ thống cơ sở vật chất đồ sộ như ngày nay. Cùng với thời gian, GS Trần Phương và thế hệ đầu tiên đều đã cao tuổi, thậm chí một số người đã rời xa cõi trần, nhưng những dấu ấn và thành quả của các vị “tiền bối” vẫn đang hiển hiện trước mắt chúng ta. Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đang chuẩn bị chuyển giao thế hệ lãnh đạo và bước sang một giai đoạn phát triển mới, với trách nhiệm của những người đã, đang trực tiếp đóng góp, được thừa hưởng và kế tục thành quả đó, toàn thể cán bộ, giảng viên, nhân viên của trường cần nêu cao tinh thần đoàn kết thống nhất, cùng chung tay quyết tâm xây dựng và phát triển trường tiếp tục đi theo con đường vì sự nghiệp giáo dục – đào tạo không vì mục đích lợi nhuận mà GS Trần Phương đã tâm huyết gây dựng. Đó chính là hành động thiết thực để tri ân GS Trần Phương và các bậc “tiền bối” và cũng là trách nhiệm chung để đảm bảo cho trường tiếp tục đi theo con đường đã đề ra là huy động, phát huy tối đa mọi nguồn lực vào việc phát triển hoạt động đào tạo mang tính công ích của trường, góp phần bổ sung nguồn nhân lực có chất lượng để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, không bị chuyển biến thành một hoạt động vì mục đích kinh doanh vụ lợi như một vài quan điểm, xu hướng lệch lạc hiện nay.
Hà Nội, ngày 27 tháng 7 năm 2023