“Con thuyền lớn” – Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội – do “Thuyền trưởng” – GS Hiệu trưởng Trần Phương – chèo lái đã vượt qua bao sóng gió suốt 27 năm qua (1996-2023). Là một thuyền viên được góp mặt 20 năm, tôi không thể nào quên những kỷ niệm đã in sâu vào ký ức tôi. Kể sao hết được những ký ức ấy, song có mấy ký ức sâu sắc thể hiện bản lĩnh của Thuyền trưởng mà tôi luôn ghi nhớ làm bài học cho mình.
- Ký ức thứ nhất: Lần đầu gặp “Thuyền trưởng”
Năm 2003 khi đến tuổi nghỉ hưu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, được sự giới thiệu của TS Đỗ Quế Lượng, nguyên Quyền Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội (từ năm 2006 là Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội), tôi được gặp GS Trần Phương, Hiệu trưởng của trường. Ấn tượng đầu tiên cho tôi thấy đây là một trường đại học còn non trẻ, nhà đi thuê trong con ngõ đường Minh Khai,…và phong cách giản dị của vị Hiệu trưởng đã từng là Phó Thủ tướng Chính phủ! Cuộc phỏng vấn tôi như một cuộc nói chuyện thoải mái: Giáo sư hỏi và tôi đối thoại.
– Cậu đã làm những việc gì, chức vụ gì?
– Dạ, thưa Anh, tôi đã làm ở ngân hàng, đã giảng dạy ở các trường ngân hàng, đã học ở Liên Xô, đã làm Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức – Cán bộ và Vụ trưởng Vụ các ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Còn học vị thì chỉ là Phó Tiến sĩ kinh tế thôi ạ.
– Ừ, tốt rồi. Thế sao không về các ngân hàng thương mại mà làm cho lương cao? Ở đây Hiệu trưởng cũng chưa được 10 trịệu một tháng đâu. Còn các Trưởng khoa thì chỉ hai triệu hai, Phó Trưởng khoa – một triệu mốt một tháng.
– Thưa Anh, có ngân hàng thương mại mời tôi với lương vài chục triệu một tháng, nhưng nghe tên trường của GS Trần Phương, nên tôi xin về đây với ba ước muốn: một là, được truyền kinh nghiệm nghề nghiệp cho lớp trẻ; hai là, có đồng nghiệp cho vui vẻ, cùng họ xây dựng ngôi trường mới, còn non trẻ; và ba là, có thêm thu nhập, nhưng cũng không quá quan trọng, vì đã có lương hưu.
Giáo sư gật đầu:
– Ý tưởng của cậu phù hợp với trường này, tôi nhận. Suy nghĩ một lát rồi Giáo sư nói tiếp: Chức vụ cũ của cậu, lẽ ra có thể bố trí Trưởng khoa. Nhưng khoa thích hợp với cậu bây giờ là Tài chính – Kế toán, đào tạo cả ngành Kế toán, Tài chính và Ngân hàng, hiện đã có Trưởng khoa rồi (lúc đó là GS Lương Trọng Yên). Cậu về làm Phó khoa vậy. Trưởng chỉ một, còn phó thì mấy cũng được. Cậu không lo ghế chứ?
– Thưa Anh, tôi nghĩ đã nghỉ hưu thì ngồi xuống đất cũng được, còn băn khoăn gì phải tranh ghế ạ!
Đến mục tiền lương, GS Trần Phương biết tôi đã hiểu, song cũng nhắc lại rằng Phó Chủ nhiệm khoa 1,1 triệu/tháng, sau này trường phát triển sẽ tính sau, còn bây giờ phải tích luỹ xây dựng cơ sở vật chất là ưu tiên hàng đầu. Giáo sư còn làm tôi ngạc nhiên khi nói rằng trường này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, không trả lương theo học làm, học vị, mà trả theo kết quả công việc. Sau này tôi mới hiểu được chính sách tiền lương của trường có các định mức khác nhau và tùy chức năng, công việc, cống hiến mà được hưởng tỉ lệ cao, thấp khác nhau.
Cuối buổi phỏng vấn, thấy phong cách của Giáo sư thoải mái, tôi liền “bạo miệng” chuyện trò vài câu về thời giá – lương – tiền mà GS Trần Phương luôn đối mặt với dư luận xã hội, về những cải cách để chống chọi với tình trạng “lạm phát phi mã” 500-600%/năm – lạm phát đến nỗi người ta ví von như người bỏ tiền mua một con bò, nhưng chỉ vài tháng sau đem bán con bò thì thu về số tiền chỉ đủ mua một cái thừng buộc bò! Trong hoàn cảnh ấy, đất nước mà không cải cách, xóa bỏ tình trạng bao cấp thì sẽ đi đến đâu! Vai trò của vị Phó Thủ tướng thời ấy được Giáo sư nói cho tôi bằng một câu vui vẻ, khi tôi chào tạm biệt:
– Thực tế thế nào thì cuộc sống, xã hội và lịch sử kiểm nghiệm.
- Ký ức thứ hai: Tách khoa, mở ngành mới
Ngày 25-01-2014, tôi được Giáo sư ký tặng cho Tập 2 cuốn Hồi ký “Một thời hào hùng” với dòng chữ thân mật “Thân tặng A. Phạm Thanh Bình”. Đọc cuốn hồi ký này, tôi mới tự lý giải được nhiều băn khoăn của mình (ít nhất là điều tự luận mơ hồ) về căn nguyên của việc tách khoa, mở ngành mới của trường ta.
Chính tầm nhìn xa của Giáo sư từ một “lão tướng” quản lý kinh tế vĩ mô tới nhà khoa học về quản lý kinh tế đã để lại cho trường một mô hình đại học đa năng – đa ngành. Là một cán bộ trong ngành ngân hàng, tôi hiểu sang những năm 2000 của thập kỷ mới, hệ thống ngân hàng của Việt Nam bước sang thời kỳ phát triển mới sau những năm đổ vỡ thời bao cấp để lại. Luật pháp về ngân hàng sẽ đầy đủ hơn, kinh doanh tiền tệ – dịch vụ ngân hàng là đương nhiên và là ngành nóng. Có lẽ Giáo sư đã nhìn ra quy luật phát triển này của xã hội, đón trước – đi đầu trong việc tách khoa, mở ngành mới?
Minh chứng cụ thể cho tư duy nhìn xa – trông rộng của Giáo sư nằm trong ký ức đẹp của tôi là việc tách khoa – mở ngành mới. Năm 2005, từ một khoa Tài chính – Kế toán, trường đã tách thành hai khoa: Khoa Kế toán và Khoa Tài chính – Ngân hàng. Năm năm sau, vào năm 2010, Khoa Tài chính – Ngân hàng tách thành hai khoa là Khoa Tài chính và Khoa Ngân hàng. Như vậy, từ một khoa đã tách thành ba khoa. Không ít người đặt câu hỏi: chắc là khoa to, đông quá, nên phải tách nhỏ để dễ quản lý?! Thực tế, sau đó đã trả lời, minh chứng của tầm nhìn xa của Giáo sư: đó là “phát triển ngành chuyên sâu cho nhu cầu của xã hội”. Mỗi khoa chuyên ngành đã thu hút được nhiều thầy, cô với kinh nghiệm nghề nghiệp, học hàm học vị cao, đúng chuyên ngành đào tạo. Số sinh viên nhập học cũng tăng lên theo đúng chuyên ngành họ lựa chọn.
Cũng theo tư duy đón trước thời cuộc của Giáo sư Hiệu trưởng, các ngành nghề mới liên tục được mở ra: các ngành về Kỹ thuật – Công nghệ, ngành về Y – Dược,… Mở ngành mới bao giờ cũng chuẩn bị đầy đủ điều kiện theo quy định của Bộ. Ít người hiểu rằng trường ta lại có cả ngành ngôn ngữ tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nga, tiếng Nhật, tiếng Hàn,… mặc dù tên trường (tuy đã đổi) là Trường Đại học Kinhdoanh và Công nghệ Hà Nội.
- Ký ức thứ ba: Tinh giản đội ngũ lãnh đạo
Năm 2016, sau 20 năm xây dựng và phát triển, Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội được trao tặng huân chương Lao động hạng nhất. Thời điểm này, số lượng cán bộ lãnh đạo các khoa, phòng đã tăng lên đáng kể. Sức hút của trường là động lực chủ yếu. Tuy nhiên, bộ máy cồng kềnh lại là áp lực lên nhiều mặt, từ việc điều hành tới chi phí. Có khoa, Ban chủ nhiệm đã lên tới 9-10 người.
Tại một cuộc họp của Hội đồng Quản trị năm 2016, GS Hiệu trưởng đã đưa ra chủ trương: vừa phát triển thêm ngành nghề đào tạo, vừa lập khoa mới, vừa tinh giản đội ngũ cán bộ lãnh đạo khoa, phòng.
Nêu lên vấn đề tinh giản cán bộ máy lãnh đạo khoa, phòng, GS Hiệu trưởng không nhận được ý kiến thảo luận, vì một mặt, đây là công việc tế nhị, đụng chạm, lại là chủ trương của GS Hiệu trưởng; mặt khác, là vướng mắc cơ chế, vì hầu hết cán bộ lãnh đạo khoa, phòng do Ban Giám hiệu quyết định tiếp nhận, giờ việc tinh giản lại phải bắt đầu từ mỗi đơn vị đề xuất. Tôi cũng băn khoăn với Khoa Ngân hàng, vì là một trong mấy khoa mà Ban Chủ nhiệm đông người nhất, song cũng “đánh liều, bạo miệng” phát biểu:
– Thưa Giáo sư Hiệu trưởng, việc tinh giản bộ máy lãnh đạo khoa, phòng là chủ trương đúng và cần thiết. Tuy nhiên, vào thời điểm trường vừa tổng kết 20 năm phát triển và được trao tặng huân chương Lao động hạng nhất, ghi nhận công lao đóng góp của các nhà khoa học và toàn thể cán bộ, công nhân viên, thì làm ngay việc này có ngại không ạ? Có phiền với dư luận “vắt chanh bỏ vỏ” không ạ?
Thật không ngờ, sau buổi họp GS Hiệu trưởng đã kết luận lùi việc này lại và thực tế là hai năm sau, tới năm 2018, toàn trường mới rà soát tất cả cán bộ lãnh đạo khoa, phòng. Cái lý và cái tình trong việc tinh giản này là phối hợp giữa sự tự nguyện với sự trẻ hóa, sự cần thiết tối đa số lượng cán bộ lãnh đạo và công khai do các khoa, phòng đề xuất.
- Ký ức thứ tư: Thang lương, bậc lương của trường sao nhiều khác lạ
Một lần, được phép của Giáo sư Hiệu trưởng, tôi cùng thầy Đoàn Hữu Xuân, Chủ nhiệm Khoa Quản lý kinh doanh, đến chúc mừng Giáo sư nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11. Một dịp hiếm có, tôi được Giáo sư tiếp ít phút để tôi bộc bạch tâm tư của mình (lại vấn đề giá – lương – tiền!). Tôi nêu câu hỏi rằng sao cơ chế tiền lương của cán bộ, giảng viên trường ta lại nhiều khung bậc và tỷ lệ như vậy? (Hiện là 16 bậc với tỷ lệ hưởng cách nhau 10%). Giáo sư vừa đặt câu hỏi, vừa có ý lý giải hóm hỉnh, người nghe phải suy nghĩ:
– Về khung lương nhiều bậc: một tòa nhà có nhiều tầng, muốn lên tầng cao phải có thời gian leo dần chứ mấy ai đủ sức nhảy vượt bậc! Hơn nữa, sức người có hạn, nên cần định hình khung thời gian mà phấn đấu, quan trọng là trên đầu còn có nhiều bậc, là niềm hy vọng để đi lên nữa.
– Còn về vấn đề tỷ lệ lương được hưởng ở mỗi bậc lương, chẳng hạn, cùng bậc 10/16 nhưng có người hưởng 40%, có người hưởng 50%, 60%,…
Giáo sư hỏi ngược lại (làm tôi bị thất thủ!):
– Các cậu có dành cả ngày 8 tiếng để làm việc ở trường không? Cán bộ trong Ban Chủ nhiệm khoa có nhận khối lượng công việc như nhau không, hay chia phần công việc?
Biết mình “thất thủ”, nhưng vẫn còn một số băn khoăn nữa về quy chế tiền lương, đó là mức lương cơ sở để từ đây tính thành tiền cho các bậc lương, các tỷ lệ được hưởng có thay đổi không? Băn khoăn này tôi không dám hỏi Giáo sư, vì ngại rằng Giáo sư bảo tôi là “không chịu suy nghĩ!”. Tôi tự nghĩ rằng mức lương cơ sở sẽ phải điều chỉnh theo mặt bằng xã hội, theo sự phát triển chung của đất nước, theo thời gian. Điều này, thế hệ kế tục của Giáo sư đương nhiên phải làm để không phụ lòng người thầy với tư duy sáng suốt.
Hai mươi năm được làm việc trong con tàu do GS Hiệu trưởng Trần Phương cầm lái đã để lại trong tôi những ký ức khó quên. Mấy ký ức của cá nhân tôi, dù là điểm sáng ghi nhận cái lý và cái tình của người Thuyền trưởng, nhưng cũng chưa thể nói hết những điều tốt đẹp của vị Thuyền trưởng./.