Lắng nghe và quyết đoán – Nguyễn Trọng Đàn

Chương trình tiếng Anh 92 đơn vị học trình

Tháng 6 năm 1998, Giáo sư Trần Phương cho tôi gặp. Ông hỏi tôi chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện vợ, chuyện con, nhưng Ông dành nhiều thì giờ hỏi tôi về việc dạy và học tiếng Anh ở Trường Đại học Ngoại thương, vì Ông biết tôi nguyên là Chủ nhiệm Khoa Tiếng Anh của trường này.

– Làm thế nào mà sinh viên Trường Đại học Ngoại thương giỏi tiếng Anh thế?

– Dạ, thưa Thầy, chúng học nhiều, học chăm và chúng có động cơ học.

– Thế cậu có thể giải thích cho tớ về 3 điều cậu vừa nói trên?

– Dạ, thưa, chúng học nhiều, vì tổng số giờ của Chương trình Tiếng Anh là 1.380 tiết, gần bằng với thời gian của Chương trình Cử nhân ngôn ngữ Anh.

– Lý gì mà phải cần nhiều giờ thế?

– Dạ, thưa Thầy, em xin nói hơi dài.

– Cứ nói, tớ nghe đây.

– Dạ. Triết lý của việc dạy tiếng Anh nói riêng và dạy ngôn ngữ nói chung là hình thành thói quen cho người học.

– Cậu nói cụ thể hơn xem nào.

– Dạ, thưa Thầy, hình thành thói quen thì không thể một sớm một chiều.

– Ừ, rồi sao? Cậu nói tiếp đi.

– Dạ, thưa Thầy. Em nói dạy tiếng Anh là hình thành thói quen ngôn ngữ. Ví dụ: để hình thành thói quen uống bia hay hút thuốc hay nghiện cũng mất nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm,… và  phải có tiền nữa ạ.

– Vậy à? Ý cậu là phải dành nhiều thời gian?

– Dạ. Và cả công sức nữa ạ.

– Vậy bao nhiêu?

– Thưa, tùy yêu cầu đầu ra của trường.

– Để tớ xem và tranh thủ ý kiến các chuyên gia tiếng Anh, như anh Thơ, anh Hùng,… Hai ý sau của cậu, tớ hiểu. Sinh viên có mục đích, động cơ học, chúng sẽ chăm. Quyết sách thời gian của cậu, tớ cho là đúng, rất đúng. Cùng với động cơ học tập tốt và sự chăm chỉ của thầy trò, các cậu đã làm nên tên tuổi của Trường Đại học Ngoại thương.

Một tuần sau, GS Trần Phương bảo tôi viết Chương trình Tiếng Anh không chuyên 92 đơn vị học trình. Cùng với Tin học, tiếng Anh là mũi nhọn trong hai buổi bình minh của Trường Đại học Dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội (HUMB) – nay là Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội (HUBT).

Mở ngành Ngôn ngữ Anh

Năm học 1999-2000, Trường Đại học dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội mở ngành Cử nhân ngôn ngữ Anh và kết quả chỉ tuyển được 5 sinh viên. Đến ngày khai trường, GS Trần Phương gọi tôi đến gặp. Giáo sư hỏi:

– Có 5 sinh viên thì cậu tính thế nào?

– Dạ thưa, xin vẫn mở, vẫn dạy, vẫn học ạ.  

– Lý gì?

– Thưa, trường ta lần đầu tiên tuyển sinh cho ngành này. Xã hội nói chung và học sinh nói riêng chưa biết về ta. Nếu học sinh muốn học chuyên ngành ngôn ngữ Anh, họ sẽ tìm đến Trường Đại học Ngoại ngữ Hà nội, Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, Học viện Ngoại giao hay Trường Đại học Ngoại thương. Những trường em vừa kể tên là những trường có nhiều kinh nghiệm, có bề sâu và bề dày về dạy tiếng Anh.

– Ừ, được. Nhưng có 5 đứa thì tớ lỗ quá.

– Thưa, đây là cái mầm một ngành học quý, Thầy mất công, mất sức, mất tiền là nhẽ thường tình chứ ạ.

– Tớ vẫn phân vân,… Cậu nói thêm đi xem nào.

– Dạ, thưa. Thầy mở trường giống như người bán hàng cơm (em xin lỗi Thầy ví von hơi dung tục),…

– Cậu cứ nói.

– Dạ, Thầy lãi ở các món Quản trị kinh doanh, Kế toán, Tin học. Vậy Thầy bù cho món tiếng Anh có đáng gì. Cả khóa có 125 đơn vị học trình nhân với 15 tiết, nhân với 5.000 đồng, bằng xấp xỉ 9.375.000 đồng.

– Ừ, xem ra cậu đã tính toán kỹ rồi. Số tiền này to, nhưng “đáng bố gì”!

Và cái Giáo sư cho là “đáng bố gì” đủ để vun đắp cho mầm ngành ngôn ngữ Anh đủ to lớn và phát triển thành cây, chưa phải đại thụ hay thiên tuế, cũng là cây đủ lớn ngang ngửa với các cây Tin học, Kế toán, Tài chính trong vườn Trường Đại học Trần Phương.

Mở ngành Mỹ thuật ứng dụng

Năm học 2011-2012, HUBT mở ngành Mỹ thuật ứng dụng, chiêu sinh được 7 em.

Nhiều người trong trường muốn bỏ ngành này, vì sợ lỗ. GS Trần Phương hỏi tôi: “Câu nghĩ thế nào về 7 sinh viên của Khoa Mỹ thuật ứng dụng?” Tôi thưa: “Dạ, chắc Giáo sư còn nhớ cách đây khoảng 10 năm, Khoa Tiếng Anh chỉ tuyển được 5 sinh viên, mãi đến giữa học kỳ I mới thêm được 2 sinh viên nữa là 7? Nay Khoa Mỹ thuật ứng dụng mới tuyển đã được 7, tức là gần gấp rưỡi số sinh viên của Khoa Tiếng Anh xưa kia. Vả lại, Thầy ơi, Khóa 1 của Trường Mỹ thuật Đông Dương, em nghe nói, chỉ có 3 sinh viên. Sao họ vẫn mở, vẫn dạy, vẫn học?… Giờ thì cái mầm èo uột đó đã trở thành cây đại thụ của ngành mỹ thuật nước nhà, thành một trường đại học.

Giáo sư ngắt lời tôi:

– Cậu vẫn dùng cái lý na ná giống cái lý cậu bênh vực cho ngành cử nhân tiếng Anh?

– Dạ, đúng ạ.

– Có lý. Để tớ nghe ngóng thêm đã.

Và Giáo sư đã quyết mở ngành này, khoa này. Sau đó ít bữa, tôi có dịp dự một cuộc họp, hay hội thảo, hay tập huấn gì đó ở Khoa Mỹ thuật (tôi không nhớ rõ), tôi nói lại với các thầy, các cô cái lý mà tôi đã thưa với Giáo sư Hiệu trưởng về việc mở ngành mỹ thuật. Từ đó, thầy Hải – Trưởng khoa, và các giảng viên, như thầy Nghị, thầy Quang có vẻ mến yêu tôi (?),…

Xây cơ sở Từ Sơn

Trong cuộc họp Hội đồng Quản trị bàn về xây dựng cơ sở Từ Sơn, vào cuối buổi, Giáo sư nói:

– Trước khi tôi thử kết luận, tôi muốn hỏi ý kiến của một người đã gợi ý cho tôi xin đất ở Từ Sơn, Bắc Ninh – anh Đàn. Nếu anh đồng ý xây, thì lý của anh là gì?

– Dạ, thưa Giáo sư và các vị trong Hội đồng Quản trị tôi đồng ý xây, vì ba lý do: một là, ta có đất; hai là, ta có tiền; và ba là, ta có nhu cầu về phòng ốc.

– Còn gì nữa không? – Giáo sư hỏi.

– Dạ, hết ạ. – Tôi đáp.

– Vậy tôi thử kết luận, – Giáo sư tiếp: Ta quyết định xây nhé. Tôi nói “thử”, vì từ giờ đến chiều, thậm chí mai hay ngày kia, đồng chí nào có ý kiến khác, tôi sẵn sàng nghe và cân nhắc thêm.

Tôi chú ý đến từ “thử” khi Giáo sư nói “tôi thử kết luận”.

Và “thử” của Giáo sư đã thành “thật”. Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội có cả một cơ đồ đồ sộ tại Thành phố Từ Sơn. Không có cái “thử kết luận” của Giáo sư, liệu hôm nay không biết ta có được Cơ sở 2 “hoành tráng” ở Từ Sơn không nhỉ?

Hai máy tính xách tay đầu tiên HUBT

Năm 1999, tôi đề nghị Giáo sư cho mua máy tính xách tay và một máy chiếu (Projector). Giáo sư hỏi tôi: “Lý gì cậu đòi mua hai thứ này?”

– Dạ, thưa, bây giờ người ta bắt đầu dùng hai máy này để dạy thay máy chiếu, đặc biệt  để dạy cho các lớp đông sinh viên, theo nghĩa lớp có 120-500 sinh viên.

– Cậu nói rõ thêm đi. – Giáo sư bảo tôi.

– Dạ, thưa. Trường ta có thứ thiên hạ đang dùng, nhưng đã lạc hậu. Đấy là máy chiếu qua đầu (overhead) dùng film làm slide.

– Được rồi. Cậu thử nói cho tớ cách dùng hai “của nợ” này đi.

– Dạ, thưa, em dạy môn Thư tín thương mại cho sinh viên của trường. Đây là môn viết. Kỹ năng viết tại các những trường ở Australia, Đại học Cambridge ở Vương quốc Anh,… họ đều học trên giảng đường có từ 500 đến 1.200 sinh viên. Nếu có máy này và 1 màn hình lớn, em có thể lên lớp cho sinh viên cả khóa được. Thay vì 30 sinh viên một lớp, em dạy cho 300 sinh viên. Tiết kiệm được bao nhiêu, Thầy biết rồi đấy.

– Ừ, thôi được. Để tớ bàn với anh Bảy (TS Trần Công Bảy – Phó Hiệu trưởng phụ trách tài chính – kế toán).

Hai hôm sau, Giáo sư gọi tôi. Ông nói: “Tớ trao đổi với anh Bảy rồi. Chúng tớ quyết định mua. Máy chiếu thì mua một cái cho cậu, còn máy tính xách tay mua hai cái, cho cậu một và cho Thảo (Chủ nhiệm Khoa Tin học) một”.

Hai máy tính và một máy chiếu lúc bấy giờ gần 10.000 USD và vào những năm ấy, tài chính của trường ta chưa đủ mạnh, lương của Hiệu trưởng và chúng tôi chỉ có 6 con số thôi. Vậy mà Giáo sư, với tầm nhìn xa và trực giác sáng, đã quyết định mua sắm những thứ có thể nói là “rất xa xỉ”, mở ra trang máy tính rất đầu tiên của HUBT.

Thi trắc nghiệm máy

Năm 2014, thầy Nguyễn Ngọc Hùng làm Giám đốc Trung tâm Luyện thi Chứng chỉ tiếng Anh quốc tế. Trung tâm có đợt thi TOEIC cho hơn 2.000 sinh viên. Thầy liên hệ với tôi và chúng tôi thống nhất với nhau sẽ thi trên hệ thống http//: toeic.edu.com mà Trung tâm LIC, Trường Đại học Ngoại thương chuyển giao cho Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội. Trước ngày thi, chúng tôi có cuộc họp liên tịch giữa Trung tâm của thầy Hùng với Trung tâm Tin học cùng toàn thể cán bộ của Trung tâm Khảo thí Tiếng Anh. Trung tâm Tin học e ngại rằng nếu chúng tôi sử dụng phần mềm này chạy qua máy chủ của trường, sẽ ảnh hưởng đến hệ thống các phầm mềm Trung tâm đang điều hành. Thấy vậy, tôi báo cáo Giáo sư Hiệu trưởng.  Ông hỏi tôi: “Cậu có chắc 2.000 sinh viên thi trên hệ thống của cậu được không?” – “Dạ, được ạ”. –  Tôi khẳng định. – “Cậu có dám chịu trách nhiệm không?” – “Dạ, em xin chịu trách nhiệm, ạ”. – “Vậy, nếu cậu đã chuẩn bị và chắc chắn, thì cứ thử đi”.

Tôi trao đổi lại ý kiến với Giám đốc Trung tâm Tin học. Tôi nói, để đảm bảo cho hệ thống tin học của trường không bị ảnh hưởng, tôi sẽ đưa máy chủ của tôi đến. Chúng tôi đấu, chạy thử vào lúc 21 giờ, trước hôm thi. Thấy ổn, tôi báo cáo Giáo sư. Ông bảo: “Cứ thử đi” và hôm sau chúng tôi cho 2.000 sinh viên thi thành công. Ông rất vui, bảo: “Từ nay nên dùng hệ thống này để thi”. Ông hỏi tôi: “Phần mềm này đáng bao nhiêu?” – “Dạ, 500 triệu ạ”. – “Thế thì mua. “Đáng bố gì”. Mua mà sử dụng tốt thì tiết kiệm lắm và làm lợi cho trường”. Mấy hôm sau, Ông viết thư cho Văn phòng soạn công văn ủy quyền cho tôi mua.

Sau khi kết nối với phần mềm thi trắc nghiệm máy, Hội đồng Khoa học đào tạo tiếng Anh (KHA) đã cùng Trung tâm Tin học xây dựng Chương trình Tiếng Anh trực tuyến. Trong buổi nghiệm thu ngày 17-6-2014, Giáo sư và các Hiệu phó Trần Công Bảy, Lê Khắc Đóa đến dự nghe báo cáo, cho ý kiến chỉ đạo và cho phép sử dụng hệ thống LIC. Hệ thống này chạy tốt đến hôm nay (7-2023). Trước đại dịch Covid, nhóm nghiên cứu đề tài khoa học cấp trường đã cập nhật nâng cấp và làm thích nghi để phục vụ thi trực tuyến cho hơn 4 vạn lượt sinh viên thi.

Lắng nghe những điều nghịch nhĩ

GS Trần Phương thường nói với chúng tôi: “Các cậu làm cán bộ là phải biết lắng nghe và khi nghe thủng thì phải làm. Mà nhớ là phải biết nghe những điều nghịch nhĩ, còn nghe nịnh thì sướng tai, nhưng tai vạ”.

Giáo sư nói như vậy và tôi thấy Ông làm như vậy. Tại Đại hội đồng cổ đông lần thứ 2, Giáo sư V. phát biểu chỉ trích gay gắt báo cáo của GS Trần Phương. Mọi người ngồi dưới xì xào bàn tán và chắc mẩm sau khi Giáo sư V. ngừng, Ông sẽ “đập” cho tan tác. Nhưng không, bằng giọng bình thản, Ông nói: “Cám ơn đồng chí V. Mời các đồng chí khác phát biểu”. Chúng tôi hết sức ngạc nhiên về thái độ của Giáo sư V, càng ngạc nhiên hơn và khâm phục về kỹ năng nghe những điều nghịch nhĩ của GS Trần Phương.

Trong các cuộc giao ban, khi trình bày ý tưởng chiến lược phát triển trường, tôi nhớ đôi lần Ông phải ngắt lời một vài người khi họ nói với giọng điệu mà tôi xin nói thẳng ra là xu nịnh, kiểu như: “Thưa Giáo sư kính mến, ý kiến chỉ đạo của Giáo sư rất là tường minh, có tầm, có tâm đầy sức hấp dẫn và rất rất khả thi,…”.

GS Trần Phương nhẹ nhàng nhắc khéo:  

– Anh X. ơi, sắp đến giờ ăn cơm rồi, anh vào đề đi.

– Này anh Y., xin đừng phát biểu như kể chuyện nữa.

– v.v…

Giáo sư nói ân cần, điềm tĩnh và những người có nhân cách cảm thấy thấy xấu hổ thay cho những ai được Ông nhắc khéo. Xấu hổ ngay cả khi chính họ không nói, không nịnh!

Bắc Ninh – Kinh Bắc, Hè 2023