Bên ly cà phê, tôi nhớ về một câu chuyện của tôi ở làng đại học tư nhân, sau nửa thế kỷ làm việc ở làng đại học công lập. Kẻ hưu trí mà nói vui vẫn đi làm Cửu vạn!
Ngày ấy cách nay vừa mười một năm (2012). Câu thơ: “Mười năm là một thập niên/ Bao nhiêu kỷ niệm gắn miền nhớ thương” có thể vận vào khoa Tiếng Việt của chúng tôi. Nhiều người trong trường Trường Đại học Kinh Doanh và Công nghệ Hà Nội lúc đó đã hỏi: “Ai chả biết tiếng Việt mà trường này phải mở khoa? Để dạy đánh vần và tập viết à?” Là người làm chuyên môn, chúng tôi hiểu ngay tâm trạng đó và rất thông cảm.
Vâng, Khoa Tiếng Việt ở trường “Kinh – Công” này là cả một tiểu khúc.
Năm ấy, 2012, trong lúc tôi còn đang phụ tá cho bạn tôi, thầy Nguyễn Mạnh Hùng, Hiệu trưởng Trường Đại học Hồng Bàng ở thành phố Hồ Chí Minh, thì một hôm, chị Chi Mai, Giám đốc Trung tâm Ngoại ngữ của Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội (cứ gọi đùa là Kinh Công!) gọi điện cho tôi. Chị là thông gia với nhà một ông bạn quý của tôi từ thời tiểu học. Qua điện thoại, chị nói trường này đang cần một chuyên gia Ngôn ngữ học để mở chương trình tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài đến lưu học. Chị muốn giới thiệu tôi với Ban Giám hiệu. Trường thì tôi không lạ vì đã có dịp tham gia dạy Đại học đại cương (cùng GS Vũ Dương Ninh và GS Nguyễn Văn Hiệp) từ hồi trường mới lập và còn nghèo, tá túc ở các phố Thái Thịnh và Cảm Hội. Thầy Trần Phương trước đó ít năm còn là Chủ nhiệm đầu tiên Khoa Kinh tế của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nơi tôi giảng dạy. Đúng việc, đúng nghề, tôi cân nhắc rồi đến ngôi trường lớn ở Vĩnh Tuy. Thầy Hiệu phó phụ trách đối ngoại, TS Lê Khắc Đóa, một đồng hương, gặp tôi vui vẻ và cho biết là sau khi chị Hồng Ngọc (nay đã mất) năm trước đã có chuyển một lớp đào tạo tiếng Việt cho Quốc hội Campuchia về trường, thì Ban Giám hiệu đã bàn với GS Trần Phương nên mở đào tạo tiếng Việt cho lưu học sinh nước ngoài và sau khi cân nhắc, Giáo sư đã đồng ý. Tôi sang bên tổ chức. TS Đỗ Quế Lượng, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị và là Hiệu phó, tiếp tôi. Ông đề nghị tôi hợp tác sớm mở Khoa Tiếng Việt. Tôi nói: “Cảm ơn các anh. Tôi nhận lời. Nhưng hiện nay trường mới có mấy chục sinh viên nước ngoài, chưa nên mở khoa, cứ nên “du kích” đã. Theo tôi, nên mở một Chương trình (Program) như kiểu các nước thì tôi nhận việc quản lý đào tạo cho, vì 30 năm trước tôi đã có dịp quản lý Khoa Tiếng Việt đông sinh viên Lào và Campuchia trong 5 năm ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội”. Thầy Lượng bảo: “Trong cơ cấu tổ chức của trường không mở cái gọi là Chương trình như anh nói. Vậy thì ta tạm lập Bộ môn trực thuộc, anh nhá. Anh đúng là chuyên gia, không vội và tính kỹ!”. Thế là tôi lại có công việc mới. Bắt đầu từ số không (0): không thầy giáo, không chương trình, không giáo trình, không văn phòng, không lớp học. Đón 34 sinh viên Lào đầu tiên (Khóa 1). Các em vui, chúng tôi cũng vui. Trường bố trí cho các em ăn ở, học tại dãy nhà xép hai tầng ở sân nhà A. Tôi chiêu mộ mấy thầy cô rồi bắt đầu dạy và học. Được cái rất vui vẻ và cố gắng.
Sau khi về hưu, tôi được trường ta mời cộng tác. Thế là sau 15 năm lại tái hợp HUBT. Trường mời tôi làm Chủ nhiệm khoa Tiếng Việt. Một hôm, GS Hiệu trưởng (thầy ở tuổi 85 còn rất nhanh nhẹn) gọi tôi. Thầy vui vẻ nói ngắn, nhưng dứt khoát: “Anh Đức ạ! Tôi đã mời anh về đây, hai bên cùng có lợi. Lẽ ra đào tạo sinh viên cho hai nước bạn Lào và Campuchia chỉ là việc của các trường công lập. Nhưng nay trường ta là trường tư đầu tiên làm việc này, vì tôi muốn có một hành vi chính trị: báo nghĩa và cảm ơn bà con hai nước bạn. Hai nước này hy sinh giúp đỡ thì ta mới đỡ khó mà kháng chiến thắng lợi. Vì vậy, vụ này ta tuyệt đối không kiếm lợi đâu nhé. Đừng chỉ nghĩ là giúp bạn nhé. Hãy coi họ như sinh viên của mình và còn hơn thế nữa. Về chính sách của trường thì tôi sẽ quyết định. Anh hiểu ý tôi nhé!”. Vâng, “hành vi chính trị”! Tôi hiểu ý của thầy, tình cảm của một cựu chiến sĩ cách mạng. Và đã hiểu thì chỉ có làm thôi. Tôi thực hiện chỉ thị của Thầy.
Năm sau, trường bảo đơn vị phải lên khoa, vì sinh viên Lào và Campuchia đã tăng lên 157 em. Nhưng không còn ở sân nhà A được nữa rồi. Trường quyết định phải sang Cơ sở 2 rất hoành tráng ở Từ Sơn thôi! Vất vả lo đội ngũ giảng viên, giáo trình, đối ngoại,… bây giờ lại lo chuyển sang nơi mới. Cơ sở Từ Sơn chưa đẹp mà còn ngổn ngang nhiều lắm. Có thầy cô ngại xa đã xin không ở Khoa nữa. Riêng tôi, mỗi sáng mùa đông từ Nhân Chính sang Từ Sơn là cả một chuyện không dễ. Nhưng niềm vui chuyên môn và tận tụy với nghiệp vụ đã giúp chúng tôi từng bước vượt khó để đào tạo và đã làm đúng những gì trường mong muốn.
Do có kết quả tốt, nên năm thứ ba, sinh viên Lào và Campuchia của Khoa tăng lên đến gần 700 em. Với 28 lớp, vấn đề giáo trình và chương trình là rất quan trọng. Khoa xắn tay cho công việc. Đã có được một tập sản phẩm. Thiếu giảng viên, phải mời các thầy cô chuyên nghiệp ở các trường bạn. Vui và lạc quan! Nhưng còn rất nhiều cái khó ở phía trước.
Một lần tôi đến thăm thầy Phương ở tư gia. Thầy ân cần tiếp tôi. Bên ấm chè, tôi kể: “Em biết bác đã lâu, năm 1977, ngồi tàu hỏa sang Liên Xô cạnh wagon của bác hẳn một tuần, bác cắt tóc cua và gầy. Rồi sau đó gặp bác phụ trách Khoa Kinh tế của Trường Đại học Tổng hợp. Em thì dạy bên Khoa Ngữ văn. Đi họp thấy bác, nhưng “kính nhi viễn chi”, không dám hỏi han gì ạ. Năm 1997, chị Thanh Minh, Khoa Triết, mời em dạy môn tiếng Việt cho chương trình Đại cương trường ta ở Thái Thịnh. Bác đang giảng Kinh tế ở cái phòng to, tầng 1, em đến chào. Bác vui vẻ bảo: Trông anh quen quen, nhưng không nhớ. Em nói: Dạ, em ở bên Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp. Bác bảo: Vui nhỉ! Nhớ hay quên, không quan trọng. Nay ta hợp tác với nhau là quý. Rồi em theo trường về Cảm Hội và bác còn cho liên hoan Tết ở đó”.
Nghe tôi kể, thầy Phương rất vui. Thầy mang ra hai cuốn hồi ký tặng tôi trong tình thân mật. Tôi mang về đọc. Tập I thật hay, nhiều thông tin về gia đình, về đời hoạt động cách mạng và kháng chiến phong phú của Thầy. Tập II thì thiên về các câu chuyện hoạt động chuyên môn về kinh tế và cương vị chính khách của Thầy.
Thầy Phương ở trong một tòa nhà to đẹp. Thầy bảo: “Nhà này ngoài tiêu chuẩn được cấp, tôi phải mua thêm đất giá cao đấy. Còn nhà thì các con cháu làm nghề xây dựng tự xây lên”. Căn hộ thầy ở lại rất đơn giản, có vẻ như bàn ghế, giường tủ và các đồ dùng vẫn là những thứ thầy được cấp phát từ hồi công tác nhà nước.
Thầy Trần Phương làm Hiệu trưởng trường ta vài chục năm rồi. Ngày trước thầy từng là Phó Thủ tướng, nhưng khi điều khiển đại học tư thì thầy theo kiểu khác hẳn. Thầy áp dụng triệt để cơ chế “cửu vạn” (thuê mướn), nên công việc chạy đều và có năng suất. Chúng tôi chỉ biết làm việc tận tụy và lãnh lương. Khác với trường công, phòng làm việc của thầy Hiệu trưởng hẹp, chỉ 10 mét vuông, trang trí đơn sơ trong cái tòa cao ốc khủng. Tiếp khách chỉ có cái bàn nước nhỏ với hai cái ghế “mậu dịch”, nhưng bù lại, hệ thống liên lạc của thầy thì tốt. Tôi nhớ thầy từng nói với “bá quan”: “Trường ta là một hệ thống, do tôi làm chủ sự. Tôi đã mời nhiều vị trước đây từng là quan to về cùng hợp tác, nhiều vị là bộ trưởng, thứ trưởng. Nhưng xin các thầy nhớ cho đây là trường đại học, nên chỉ có giảng dạy và nghiên cứu khoa học, chỉ có thầy và trò thôi. Còn quản lý ư? Xin quý vị quên quá khứ, xin để lại mũ cao áo dài ở ngoài cổng trường, vì trường ta nay chỉ có một mũ cao, một áo dài. Mũ thì tôi đã đội, áo thì tôi mặc mất rồi (!)”. Trong trường, mọi người được giao trách nhiệm cụ thể và cảm thấy bình đẳng với nhau. Ở Vĩnh Tuy, trường cũng cho Khoa tôi một phòng chừng tầm mười mét vuông, một cái bàn, một cái ghế, một giá sách nhỏ và một cái bàn nước nhỏ như của phòng Hiệu trưởng. Phòng chung giải lao cho các thầy cô thì rất rộng, đầy đủ tiện nghi. Đi họp, ai muốn ngồi đâu thì ngồi. Thầy bảo: “Muốn rộng thì sang bên Từ Sơn”. Làng Đại học ở Từ Sơn là một cơ ngơi rất đẹp, trong một công viên xanh mát, chẳng khác quốc tế. Nhìn cơ ngơi, Khoa Tiếng Việt chúng tôi thầm cảm ơn tầm nhìn của thầy Trần Phương.
Xin kính chúc Thầy trường thọ, an nhiên và đồng hành cùng trường trong các bước đi tới./.