Tôi vào làm việc ở Trường Đại học Kinh doanh Công nghệ Hà Nội (HUBT) cũng đã khá nhiều năm, nhưng hầu như chưa một lần được làm việc trực tiếp với Giáo sư Hiệu trưởng, mà chỉ diện kiến trong những cuộc họp, hội nghị do Ông chủ trì hoặc có mặt tham dự.
Chỉ với bấy nhiêu thôi, nhưng với một người nổi tiếng như Ông, thì cũng đủ đem lại cho tôi cảm xúc kính nể, ngưỡng mộ, khâm phục về những gì Ông đã cống hiến cho đất nước, cho nhân dân, xuyên suốt từ thời kỳ đấu tranh giành và giữ chính quyền cách mạng non trẻ, những cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc và những thập niên đầu tiên của sự nghiệp xây dựng lại đất nước từ tro tàn đổ nát sau non nửa thế kỷ chiến tranh.
Tuy nhiên, khi đó sự ngưỡng mộ của tôi đối với Ông giống như với một thần tượng, một nhân vật huyền thoại mà chưa có hình hài cụ thể với trí tuệ, tài năng, phong cách của một con người. Cho đến một ngày, tôi được chứng kiến những điều đó tàng ẩn trong cách Ông giải quyết một vấn đề cụ thể với tư cách là Hiệu trưởng, Đó là việc thực hiện quyền được chuyển đổi ngành học của sinh viên đang học trong trường, mà tôi xin kể lại dưới đây.
Từ năm 2012 trở về trước, việc tuyển sinh nhập học đầu khóa ở Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội thực hiện theo quy định chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quy chế Sinh viên và Quy định tuyển sinh của trường, mà chưa có quy định hướng dẫn cụ thể. Theo đó, việc chọn ngành học phụ thuộc khối thi sinh viên đã đăng ký: Khối A chủ yếu dành cho các ngành Công nghệ – Kỹ thuật, Khối B và Khối C chủ yếu dành cho các nhóm ngành Kinh tế – Quản lý, Khối D dành cho nhóm ngành Ngoại ngữ, v.v… Khi có nguyện vọng chuyển đổi ngành học trong nội bộ nhóm ngành hoặc từ nhóm ngành này sang nhóm ngành khác, sinh viên gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với các trường hợp xin chuyển đổi ngành học sau khi đã học ở ngành cũ một thời gian. Khá nhiều trường hợp đã không được giải quyết hoặc để kéo dài, mặc dù Quy chế Sinh viên năm 2011 của trường có quy định “Sinh viên có quyền chọn ngành học, được đổi ngành học”. Sở dĩ có tình trạng trên là do một số nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, quyền được đổi ngành học của sinh viên tuy đã được ghi trong Quy chế Sinh viên, nhưng chưa được cụ thể hóa thành quy trình thực hiện. Các phòng, ban hữu trách trong nhiều trường hợp chưa có đủ căn cứ cụ thể để giải quyết việc chuyển ngành học cho sinh viên.
Thứ hai, trong những năm đầu, nhiều phòng, khoa của trường còn chịu ảnh hưởng bởi phương thức tuyển sinh theo chỉ tiêu từng ngành học ở các trường đại học công lập; theo đó, việc chuyển sang một ngành học mới cùng khối đào tạo đã là rất khó khăn, còn chuyển khác khối đào tạo hầu như là không thể. Tình hình trên trong một số trường hợp làm nảy sinh phong cách cửa quyền, áp đặt, cứng nhắc trong việc giải quyết nguyện vọng chuyển ngành của sinh viên.
Thứ ba, tâm lý chung của các đơn vị trong trường là muốn có sự ổn định về tổ chức hoạt động. Việc chuyển ngành học của sinh viên không chỉ làm phát sinh nhiều công việc nghiệp vụ, gây rối bận cho các phòng, ban chức năng, mà còn gây xáo trộn tổ chức kế hoạch đào tạo của trường. Vì vậy, trong chừng mực nào đó, tâm lý của một số phòng, ban ngại giải quyết cho sinh viên chuyển ngành, đặc biệt là chuyển ngành khác khối, là có thật. Chưa kể trường hợp một vài khoa phụ trách ngành học có ít sinh viên, có tâm lý muốn giữ người học, không tạo điều kiện cho sinh viên xin chuyển sang học ngành khác.
Sự ách tắc, chậm trễ trong việc đáp ứng nguyện vọng chính đáng của sinh viên trong việc xin chuyển ngành học vì những lý do như trên, trong chừng mực nhất định, đã gây ra những hậu quả không mong muốn; Những trường hợp xin chuyển ngành học, nhưng việc giải quyết bị kéo dài, gây lãng phí thời gian (có trường hợp đến 1, 2 học kỳ), tốn phí tài chính của sinh viên và gia đình. Có những trường hợp xin chuyển ngành, không được giải quyết, sinh viên không còn động cơ học tập, nên biểu hiện tiêu cực, bê trễ. Một số trường hợp sinh viên không được đáp ứng nguyện vọng, nên đã xin thôi học hoặc chuyển sang trường khác.
Hơn thế nữa, khó khăn trong việc xin chuyển ngành học của sinh viên làm nảy sinh cái nhìn tiêu cực đối với Trường, trong chừng mực nhất định, ảnh hưởng lan tỏa đến hình ảnh và sức thu hút của Trường đối với người học và cộng đồng xã hội.
Trước tình hình thực tế là hiện tượng sinh viên xin chuyển ngành vẫn thường xuyên diễn ra vào mọi thời điểm trong quá trình học, ngày 23-12-2012, Phòng Công tác sinh viên đã chủ động làm tờ trình lên Ban Giám hiệu xin ý kiến chỉ đạo giải quyết những vướng mắc cụ thể sau đây:
- Sinh viên thi tuyển sinh khối nào thì được chuyển ngành học và khối nào thì không được chuyển ngành học? (Ví dụ, Khối C, Khối V có được chuyển ngành học không?).
- Sinh viên được chuyển ngành học mấy lần và chuyển vào những thời điểm nào?
Chỉ ba ngày sau đó (27-12-2012). Giáo sư Hiệu trưởng trả lời bằng bút phê trên tờ trình: “Sinh viên được chuyển ngành học, bất kể khối thi nào và bất kể thời gian nào, miễn là đảm bảo học đủ các môn thuộc ngành học mới”.
Tôi còn nhớ khi đó thầy Trần Đức Kiên, Phó Trưởng phòng Công tác sinh viên đưa cho tôi xem tờ trình có bút phê của Hiệu trưởng và nói: “Cụ đã quyết rồi đây!”. Với tôi, cũng lâng lâng một cảm xúc sẵn sàng chấp hành, khi nhìn vào những dòng bút phê bằng nét mực đỏ tươi, óng ánh với những con chữ viết tay đẹp một cách rắn rỏi và cá tính, ý tứ khúc chiết, văn phong toát lên sự mạnh mẽ, dứt khoát như một mệnh lệnh quân sự, đặc biệt là khi ông đã gạch chân những chữ: bất kể khối thi nào, bất kể thời gian nào. Không chỉ có thế, trong giọng văn của Ông, tôi cảm nhận dường như Ông có phần bức xúc pha lẫn ngạc nhiên, khi những người đồng sự cấp dưới của mình đặt ra những câu hỏi đối với một việc hiển nhiên như vậy.
Theo ý kiến chỉ đạo của Ông, tình trạng vướng mắc, lúng túng cho các phòng, ban trong việc giải quyết nguyện vọng chuyển ngành học của sinh viên sau đó đã được tháo gỡ. Trường đã ban hành quy định: sinh viên học các ngành có thời gian đào tạo toàn khóa là 4 năm sẽ được chuyển ngành học khi kết thúc học kỳ 1 năm thứ nhất; sinh viên sinh viên học các ngành có thời gian đào tạo toàn khóa từ 5 năm trở lên sẽ được chuyển ngành học khi kết thúc năm thứ nhất, nếu đáp ứng đủ các tiêu chuẩn điều kiện quy định cho việc học ngành mới.
Đối với trường, quy định như trên kết hợp với việc bố trí kế hoạch đào tạo tất cả các ngành học theo hướng đưa các môn cơ sở, cơ bản mọi ngành đều phải học, vào học kỳ đầu tiên, năm học đầu tiên. Bố trí như vậy, một mặt, tạo điều kiện cho sinh viên được chuyển ngành học, mà không phải học thêm các môn học không cần thiết cho ngành học mới; mặt khác, tạo điều kiện cho việc giải quyết chuyển ngành vào quỹ đạo ổn định, có kế hoạch, tránh được sự rối bận cho các đơn vị trong trường. Ngoài ra, việc tạo điều kiện cho sinh viên chuyển ngành học theo nguyện vọng cũng sẽ tạo ra hiệu ứng tích cực lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng xã hội, góp phần cùng với các chủ trương biện pháp khác, thu hút đông đảo thí sinh đăng ký vào học ở HUBT. Với ý nghĩa đó, việc cho phép sinh viên chuyển đổi ngành học theo tinh thần chỉ đạo của Giáo sư Hiệu trưởng đã góp phần nâng cao thương hiệu, hình ảnh của HUBT, làm cho số lượng sinh viên năm sau cao hơn năm trước và luôn vượt xa chỉ tiêu đào tạo hàng năm.
Đối với sinh viên, điều quan trọng hơn mà quyết định này đưa lại là đã tạo điều kiện để các em có thể học một ngành mình thật sự mong muốn, thật sự phù hợp với dự định tìm kiếm việc làm sau khi ra trường và vì thế, sinh viên tìm thấy động cơ tự thân để phấn đấu học tập, rèn luyện vì tương lai của chính mình.
Họ cũng sẽ không phải mất thời gian vì việc xin chuyển ngành bị kéo dài hoặc lãng phí thời gian một cách vô ích để học một ngành học mà bản thân sẽ không dùng đến khi bước vào cuộc sống. Sự lãng phí thời gian của những người trẻ tuổi không chỉ là sự mất mát không thể bù đắp trong cuộc đời của họ và sự lãng phí thời gian của nhiều người sẽ là sự mất mát nguồn sinh lực của cả xã hội.
Kể lại câu chuyện này, tôi không chắc chắn là sẽ có được sự đồng điệu về cảm xúc của nhiều người về Giáo sư Trần Phương như tôi đã nghĩ, vì đây chỉ là sự việc quá đỗi nhỏ nhặt, quá đỗi bình thường, khi nói về một người nổi tiếng như Giáo sư. Tuy nhiên, tôi nghĩ việc làm tưởng như nhỏ nói trên, nhìn rộng ra và sâu hơn, thì thấy ở đó hàm chứa tinh thần nhân văn và sự tôn trọng đối với quyền của người học; tinh thần chủ động sáng tạo, quyết liệt trong giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, mà không câu nệ chờ đợị cấp trên; tác phong dứt khoát, mạnh mẽ, kiên quyết trong hành động và sự sâu sắc, chặt chẽ trong việc lựa chọn quyết định khi giải quyết công việc.
Với tất cả sự ngưỡng mộ đối với Giáo sư Hiệu trưởng Trần Phương, tôi muốn bày tỏ rằng: đối với tôi sự việc nhỏ kể trên đem lại một ấn tượng mạnh, một cảm xúc lớn đọng lại lâu dài về một trí tuệ Trần Phương, một tài năng Trần Phương, một phong cách Trần Phương./.
Bút tích Giáo sư Hiệu trưởng Trần Phương trên Tờ trình của Phòng Công tác sinh viên