Thế nào là nguyên khí quốc gia?- Nguyễn Văn Ba

Từ hồi Giáo sư Trần Phương còn ở ngôi nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên bờ kênh Bắc Hưng Hải, tôi vẫn thỉnh thoảng đến thăm ông. Lúc đó ông chưa lập trường. Khi gặp gỡ Giáo sư, tôi vẫn xưng là con với ông, vì tôi cũng sàn sàn tuổi con cả của ông. Cho đến tận bây giờ, cách xưng hô đó vẫn không đổi. Với tôi, mỗi lần đến thăm Giáo sư đều có một điều gì đó mới lạ, cuốn hút như là một sự giải đáp, giải mã, khám phá.

Điều đầu tiên mà tôi không bao giờ quên được là mặc dù chỉ là những cuộc thăm hỏi, nhưng lúc nào ông cũng đưa ra hạn định thời gian, như là “chỉ 30 phút thôi nhé”. Không biết với người khác có như vậy không, nhưng với tôi hầu như lần nào ông cũng quá giờ. Nhiều lần tôi chủ động nhắc giờ, thì ông cười hồn hậu, hóm hỉnh và nói: “Ấy là tớ định thời gian cho cậu”. Quả là trong cuộc sống, dù bất kể việc gì, cũng cần có hạn định thời gian để mà phấn đấu, để mà dự liệu, để mà làm kế hoạch. Đấy cũng là một bài học quý của cuộc đời mà không phải ai cũng rút ra được.

Không ít lần tôi gặp ông ở nơi mà đơn vị tôi đang công tác lúc ấy và ông cùng đến làm việc hoặc ở nhà ông, tôi luôn nhận ra hai điều bất biến: Một là, ông chuẩn bị nội dung hết sức chu đáo, chặt chẽ; Hai là, tại bất kỳ đâu, khi nào, với ai,… ông cũng học hỏi để tìm hiểu đến tận gốc rễ, căn cội của vấn đề. Tôi chưa bao giờ thấy ông ngần ngại khi hỏi về một điều chưa biết, dù người được ông hỏi già hay trẻ. Nhiều lần ông hỏi tôi về một vấn đề, một cách nhìn nhận, một cách giải quyết,… cho đến khi hiểu. Khi hiểu rồi thì ông thường nở một nụ cười thật trong trẻo, thánh thiện. Có lẽ do sự học hỏi không ngừng nghỉ mà cách nghĩ của ông không có tuổi. Từ khi lập trường thì cái mà ông quan tâm là nội dung, phương pháp, cách thức tốt nhất, hay nhất để dạy lũ trẻ.

Bất kể vấn đề nào đưa ra, ông đều phản biện để có được lựa chọn tốt nhất. Trong không ít lần, khi tôi đề xuất một vấn đề nào đó, ông đều đòi hỏi tôi phải giải trình tỉ mỉ. Tôi còn nhớ có lần ông hỏi tôi về lý do cho sinh viên đến học tập ở đền Phù Đổng. Tôi thưa với ông rằng câu chuyện Thánh Gióng vừa là cách truyền dạy cho hậu thế lòng yêu nước, trách nhiệm với việc bảo vệ giang sơn, vừa là thông điệp tuyệt vời với mọi kẻ xâm lăng. Rằng, Gióng là người có địa vị xã hội gần như thấp kém nhất, vì là con của một người phụ nữ đơn thân lại có vấn đề về sức khỏe sinh học, nên 3 tuổi vẫn chưa biết nói, cười. Ấy vậy mà, khi sứ giả loan báo giặc dã, Gióng đã xông ra giữ nước. Vật liệu quý nhất lúc đó là sắt, công nghệ cao nhất là rèn đã được đem ra chống giặc. Theo sau Gióng là trai tráng làng trên, xóm dưới, là thúng gạo, vại cà và tấm lòng non nước. Một đất nước, một dân tộc có những con dân như vậy, nên bờ cõi, cương vực mới giữ được như ngày nay. Nghe tôi nói xong, ông cười rạng rỡ bảo: “Ừ, phải chọn những nơi như thế!”. Tôi rất mừng vì được Ông hỏi han kỹ lưỡng và ủng hộ ý tưởng trong công việc của mình, mặc dù đó là công việc nhỏ của một nhân viên.

Người ta vẫn nói, tìm ra cái để hỏi khó hơn trả lời câu hỏi. Cái cách hỏi chuyện của ông, cái cách ông bận áo may ô quần cộc, ngồi trên chiếc đôn gỗ cạnh giường cặm cụi, cần mẫn sửa từng dấu chấm, dấu phẩy trong các giáo trình, đã thể hiện lên tâm huyết của ông với mái trường, với sinh viên, với người học; và chính những điều ấy đã giải đáp cho tôi câu hỏi: Thế nào là nguyên khí quốc gia? 

Có lẽ do thẩm thấu các ý tưởng, các dự định và mong muốn của ông qua những điều ông nói, những việc ông làm, mà trong một lần đến thăm, ngay tại đó, tôi đã viết một bài thơ ngắn tặng ông – chỉ mấy câu thơ mộc mạc, chân tình. Nghe tôi đọc xong, ông cười thích thú nói: “Cậu gói cả cuộc đời tớ vào bài thơ này rồi ư?”. Bài thơ đó là như sau:

TRỒNG NGƯỜI

Tuổi tác là chuyện thời gian,

Dâng đời là việc đang làm bấy nay.

Ai ngăn được nỗi hăng say

Con tim vẫn rộn vang đầy yêu thương,

Yêu cháu con, yêu mái trường

Những mong đất nước hùng cường mai sau.