Đại học dân lập là một hiện tượng mới mẻ ở nước ta, chưa có một khuôn mẫu nào để noi theo. Kể từ ngày hình thành Hội đồng sáng lập Trường Đại học dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội (năm 1994), chúng ta đã không ngừng tìm tòi, thử nghiệm, để xác định cho Trường ta một mô hình dân lập thích hợp. Đến nay đã qua 8 năm – thời gian đủ để thu hái những thành quả đầu tiên.
Xét dưới góc độ một trường đại học, một cơ sở đào tạo đại học, thì khó có thể nói rằng giữa công lập và dân lập có sự khác biệt gì cơ bản. Trường nào thì cũng phải tuân thủ Luật giáo dục và các Quy chế của Bộ Giáo dục – Đào tạo. Trường nào thì cũng phải đạt một chuẩn mực có ý nghĩa quốc gia và quốc tế. Trường nào thì cũng phải có mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo, giáo trình, giáo tài, giáo án, Hiệu trưởng, Hiệu phó, các Phòng Ban chức năng, các Khoa và Tổ bộ môn.
Sự khác biệt chỉ bắt đầu khi ta xét nó dưới góc độ một tổ chức dân lập.
Đặc điểm chung của trường dân lập
Dân lập là gì?
- Khái niệm “dân lập” chưa nói được gì nhiều, ngoài một điểm: Nó không phải do chính quyền Nhà nước lập ra. Theo nghĩa đen thì dân lập có nghĩa là do “dân” lập ra. Nếu hiểu “dân” là dân một nước, là công dân, thì ai mà chả là dân? Hiểu như vậy thì công lập và dân lập còn gì là khác biệt nữa?
“Dân lập” phải được hiểu như một cái gì khác với “công lập”, giống như ta vẫn dùng khái niệm “ngoài quốc doanh” để chỉ tất cả những gì không phải là quốc doanh. Cái gọi là “ngoài quốc doanh” có phạm vi bao quát rất rộng: Từ kinh tế tự nhiên cá thể, kinh tế tiểu nông, tiểu chủ, kinh tế hợp tác xã, đến kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân nước ngoài. Khái niệm “dân lập” cũng vậy, nó có phạm vi bao quát rất rộng. Trường dân lập có thể do một người bỏ vốn đầu tư như một doanh nghiệp tư nhân, có thể do nhiều người bỏ vốn đầu tư dưới những hình thức khác nhau: Công ty hợp danh, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, công ty 100% vốn nước ngoài (vì hành lang pháp lý trong lĩnh vực giáo dục ở nước ta chưa đủ cụ thể cho nên nhiều hình thức tổ chức chưa xuất hiện công khai như nó đang tồn tại). Dù tổ chức dưới hình thức nào thì tất cả đều được xếp vào khái niệm “dân lập”, khác với khái niệm “công lập”. Trên thế giới, người ta dùng khái niệm “công” và “tư” để chỉ sự phân biệt này. “Công” là để chỉ tất cả những gì thuộc về chính quyền Nhà nước, còn “tư” là để chỉ tất cả những gì còn lại. “Tư” không nhất định có nghĩa là tư nhân, tư hữu – tức sở hữu của một người. Sở hữu của một hợp tác xã, của một công ty trách nhiệm hữu hạn, của một công ty cổ phần không thể đơn giản liệt kê vào sở hữu tư nhân hay tư hữu. Đành rằng cơ sở của nó là tôn trọng sở hữu tư nhân, song, nó vẫn ít nhiều mang tính chất xã hội. Nói cụ thể hơn thì nó thuộc loại hình sở hữu hợp tác. Đối với những cơ sở bao gồm nhiều chế độ sở hữu đan xen nhau, kết hợp với nhau, thì càng khó liệt kê vào một trong hai loại hình “công” hoặc “tư”.
Ngay khái niệm “công” và “công lập” cũng không phải là một cái gì thuần nhất, đơn nhất. Công lập có thể là thuộc chính quyền trung ương, có thể là thuộc Bộ, Ngành, có thể là thuộc Tỉnh, Thành phố, có thể là thuộc Quận, Huyện, có thể là thuộc Phường, Xã. Trường công lập thuộc mỗi cấp chính quyền nêu trên đều có đặc điểm riêng về nguồn ngân sách, về quy mô ngân sách, về đội ngũ giáo viên, về trình độ và chất lượng đào tạo. Khi gọi là “công” hay “công lập”, người ta đã trừu tượng hóa những đặc tính đa dạng ấy để chỉ nhấn mạnh một đặc điểm chung: nó thuộc chính quyền Nhà nước. Đối với khái niệm “tư” hay “dân lập” cũng vậy. Người ta đã trừu tượng hóa những đặc tính đa dạng về mặt sở hữu, về hình thức tổ chức, về phương thức quản lý và phân phối, để chỉ nhấn mạnh một đặc điểm chung: nó không thuộc chính quyền Nhà nước.
- Công lập hay dân lập thì xét cho cùng, điều đó có ý nghĩa gì? Sự khác biệt quan trọng nhất là ở một điểm: Ai gánh chịu kinh phí đào tạo? “Công lập” thì ngân sách Nhà nước gánh chịu – toàn bộ hoặc một phần. “Dân lập” thì dân gánh chịu. Những người đứng ra tổ chức trường dân lập chỉ làm nhiệm vụ ứng trước kinh phí đào tạo (tức vốn đầu tư) để rồi thu lại dưới hình thức học phí. Đến đây, ta càng thấy rõ ý nghĩa thực của khái niệm “dân lập”: Chính người dân phải bỏ tiền ra để chăm lo sự nghiệp đào tạo cho con em họ. Ai đứng ra tổ chức sự nghiệp đào tạo này không quan trọng. Điều quan trọng là: sự nghiệp đào tạo này chính là do dân chu cấp. Những người đứng ra tổ chức sự nghiệp này, về thực chất, chỉ là những người được “ủy quyền” làm việc đó. Sự “ủy quyền” thể hiện ở chỗ: Nếu sự nghiệp đào tạo này được dân ủng hộ, thì họ sẽ cho con em họ đến học, bằng không thì sẽ chẳng có ai đến học. Sự “ủy quyền” này không diễn ra dưới hình thức pháp lý dân chủ, nghĩa là có người đề cử, ứng cử và có người bầu cử, mà là một sự ủy quyền mặc nhiên. Có sự phân công lao động xã hội nào mà lại chẳng diễn ra theo cách đó?
Sự cách biệt về học phí giữa công lập và dân lập đã và đang có khuynh hướng khép lại. Đào tạo đại học, từ chỗ chỉ dành cho một thiểu số, hay thiểu số “tinh hoa” (élite), ngày nay đã mang tính chất quần chúng ngày càng rộng. Bởi lẽ: Sự phát triển của kinh tế và của khoa học kỹ thuật đòi hỏi người lao động phải được đào tạo nghề nghiệp ở trình độ đại học và với số lượng ngày càng nhiều. Trình độ dân trí nâng cao và mức sống nâng cao cũng đặt ra yêu cầu như vậy. Đứng trước quy mô phát triển lớn lao của giáo dục đại học, ngân sách Nhà nước ngay cả ở những nước giàu có nhất cũng tỏ ra bất cập. Lấy nước Mỹ làm thí dụ. Các trường đại học công lập (state university) phải dựa vào 3 nguồn thu mới trang trải được kinh phí đào tạo: Thứ nhất là trợ cấp từ ngân sách Nhà nước (ở Mỹ, kinh phí giáo dục được phân cấp cho các Bang, Bang nào giàu thì trợ cấp nhiều, Bang nào nghèo thì trợ cấp ít), thứ hai là tài trợ của các doanh nghiệp và các quỹ xã hội, thứ ba là học phí. Học phí của các trường đại học công lập ở Mỹ thường bằng 2/3 học phí của các trường đại học dân lập cùng loại. Ở Mỹ, trường đại học công lập chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, còn đại đa số là “dân lập”. Với học phí như trên, các trường đại học công lập ở Mỹ, về thực chất, đều là trường bán công.
Về phía các trường dân lập, họ đều nhận được trợ cấp ít hoặc nhiều từ ngân sách Nhà nước, dưới hình thức học bổng hoặc hỗ trợ kinh phí nghiên cứu khoa học. Họ cũng nhận được tài trợ của các doanh nghiệp và các quỹ xã hội để đào tạo ra những người lao động đáp ứng nhu cầu của các tổ chức này. Như vậy, học phí không phải là nguồn duy nhất để trang trải kinh phí đào tạo.
Với cơ cấu nguồn thu gần giống nhau thì sự cách biệt về học phí giữa công lập và dân lập chẳng còn lại bao nhiêu. Điều này tạo ra cơ hội học tập gần như đồng đều cho mọi sinh viên, dù học ở trường công lập hay học ở trường dân lập. Chính chất lượng của dịch vụ đào tạo mới là căn cứ chủ yếu xác định mức cách biệt về học phí giữa các trường: Nhiều trường đại học nổi tiếng ở Mỹ (đều là trường dân lập) thu học phí cao bằng 3-4 lần học phí của các trường đại học khác.
Ở châu Âu, nhiều nước vẫn duy trì truyền thống bao cấp học phí cho cả trường công lập lẫn dân lập. Ngân sách Nhà nước trợ cấp cho các trường đại học dân lập tới 50% thậm chí 90% kinh phí đào tạo hàng năm. Chính sách này xuất phát từ quan điểm cho rằng dù công lập hay dân lập thì trường nào cũng góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước cả, ngân sách Nhà nước do nguồn thu thuế của dân phải được phân phối công bằng cho con em họ, dù học ở trường công lập hay học ở trường dân lập.
Ở nước ta, mới chỉ trong mấy năm lại đây thôi, quy mô phát triển của đào tạo đại học đã vượt quá khả năng chịu đựng của ngân sách Nhà nước. Các trường đại học công lập đều được phép thu học phí để bổ sung một phần vào kinh phí đào tạo. Mức học phí đã bằng hơn 1/2 học phí của các trường đại học dân lập cùng loại. Điều đó nói lên rằng trong công lập đã xuất hiện yếu tố dân lập. Nói cách khác, đại học công lập đã chừng nào biến thành bán công. Phải chăng đó là điều kiện tất yếu để chuyển sự nghiệp đào tạo đại học sang đối tượng đại chúng? Mở mang các trường đại học dân lập cũng là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược theo hướng đó.
Suốt mấy thập kỷ qua, chúng ta đã từng phổ biến quan niệm cho rằng đã là Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì Nhà nước phải đảm đương tất cả, bao cấp tất cả. Nếu làm được như thế thì còn gì đáng mong muốn hơn? Nhưng, nếu ngân sách Nhà nước không đủ sức bao cấp tất cả thì sao? Trong tình hình đó, nếu vẫn khư khư ôm lấy quan niệm cũ, không dám buông ra cho ai làm thì đó lại là sợi dây trói buộc sự phát triển của xã hội. Điều đáng mừng là trong quá trình đổi mới, chúng ta đã bước đầu đẩy lùi được quan niệm lỗi thời đó bằng chủ trương “xã hội hóa giáo dục”, nhờ vậy, quy mô đào tạo đại học đã có được bước phát triển mới.
Chỗ yếu và chỗ mạnh của dân lập
- Sự bao cấp của ngân sách Nhà nước đối với công lập là chỗ mạnh của công lập, đồng thời là chỗ yếu của dân lập: học phí của dân lập bao giờ cũng cao hơn học phí của công lập. Học phí cao thì chừng nào đó làm giảm sức thu hút đối với sinh viên, nhất là đối với những gia đình có thu nhập thấp. Số lượng thí sinh đông thì tỷ lệ học sinh khá giỏi trúng tuyển cũng cao hơn, do đó, đầu vào của đại học công lập nhìn chung cao hơn đầu vào của đại học dân lập. Tuy nhiên, chất lượng đầu vào không phải bao giờ cũng quyết định chất lượng đầu ra. Vai trò quyết định là ở quá trình đào tạo và tự đào tạo.
Ngoài ưu thế trên, đại học công lập còn một ưu thế khác: ưu thế về tâm lý. Từ thập kỷ 60, chúng ta đã từng thuyết giảng: Kinh tế quốc doanh nhất định là ưu việt hơn kinh tế tập thể, kinh tế tập thể nhất định là ưu việt hơn kinh tế cá thể. Tuy nhiên, thực tiễn thì lại không chứng minh như thế, thậm chí ngược lại. Vì lẽ đó, Đại hội VI của Đảng (1986) đã chuyển sang chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và dành quyền bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Từ đó đến nay, thực tại đã đổi mới nhiều, nhưng ý thức thì lại đổi mới chậm hơn thực tại: Tâm lý “quốc doanh nhất định là ưu việt hơn” vẫn chi phối phần lớn học sinh và phụ huynh học sinh. Tâm lý này còn được hỗ trợ bởi cách đối xử phân biệt “con đẻ” với “con nuôi” của một số cơ quan chính quyền thuộc loại chậm đổi mới. Có thể là thời gian chưa đủ dài, và thực tiễn cũng chưa đủ phong phú để xóa đi di sản tâm lý của một thời quá khứ. Trong khi đó thì trên thế giới, người ta đã có đủ thực tiễn để tin rằng chất lượng đào tạo không tùy thuộc vào công lập hay dân lập. Những trường nổi tiếng nhất trên thế giới về chất lượng đào tạo lại chính là những trường dân lập: Đại học Harvard ở Mỹ, Đại học Cambridge ở Anh, Đại học Insead ở Pháp, v.v… Văn bằng của các trường này là niềm tự hào của sinh viên và nghiên cứu sinh, và là chứng chỉ để nhận một mức lương cao hơn hẳn các trường khác.
- Tuy nhiên, dân lập cũng có chỗ mạnhmà công lập không có. Chỗ mạnh bắt nguồn từ quyền tự chủ của dân lập, trong đó, cốt lõi là quyền tự chủ về tài chính. Nhìn vào Trường ta thì đủ rõ.
- Chương trình đào tạoCử nhân Quản lý kinh doanh của Trường ta (Đại học Quản trị và Kinh doanh Hà Nội) được thiết kế với 292 đơn vị học trình, bằng 1,4 lần khối lượng kiến thức chuẩn của Bộ. Khối lượng kiến thức vượt trội chủ yếu dành cho Tin học và Tiếng Anh. Mục tiêu là trang bị cho sinh viên trình độ B về tin học ứng dụng và trình độ C về tiếng Anh, để dễ thích ứng với thời đại công nghệ thông tin và thời đại hội nhập kinh tế toàn cầu. Khối lượng kiến thức vượt trội cũng cho phép đưa vào chương trình một số môn học cập nhật với thời đại, đồng thời dành nhiều công phu hơn cho việc hướng dẫn thực tập và luận văn tốt nghiệp.
Khối lượng kiến thức lớn hơn thì trình độ sinh viên ra trường phải cao hơn, nhất là về trình độ tiếng Anh và trình độ tin học. Với chương trình này, nhiều sinh viên Trường ta đã được các cơ quan tuyển dụng đánh giá cao.
Khối lượng giảng dạy lớn hơn thì học phí đương nhiên phải cao hơn (nếu tính học phí theo tiết giảng thì không cao hơn).
Cũng vì mục tiêu chất lượng đào tạo mà Trường ta đã lựa chọn một số biện pháp tốn kém như: Biên soạn lại gần như toàn bộ các giáo trình, áp dụng phổ biến phương thức thi trắc nghiệm trên máy vi tính, hướng dẫn sinh viên viết tiểu luận và luận văn tốt nghiệp, v.v….
Giáo trình là một trong những công cụ cơ bản để đào tạo và tự đào tạo. Giáo trình của nhiều môn học hiện nay mang tính chắp vá và chứa đựng không ít kiến thức đã lỗi thời. Tất nhiên vẫn có thể đào tạo được với những giáo trình này, song chất lượng đào tạo sẽ không cao. Trường ta đã tổ chức biên soạn lại giáo trình của phần lớn các môn học, nhằm làm cho giáo trình chuyển tải được nội dung cốt lõi của các môn học một cách đầy đủ, cập nhật, gắn kết lý thuyết với thực hành, và dưới dạng súc tích, dễ tiếp nhận nhất đối với sinh viên.
Việc chuyển từ phương thức thi tự luận sang phương thức thi trắc nghiệm trên máy vi tính cũng là một biện pháp tốn kém nhưng đem lại hiệu quả rõ rệt về một số mặt: Loại trừ được tệ nạn quay cóp, đòi hỏi sinh viên phải nắm kiến thức toàn diện hơn, cho điểm khách quan công bằng hơn.
Tập dượt cho sinh viên làm quen với nghiên cứu khoa học qua việc viết tiểu luận trong mỗi học kỳ; hướng dẫn chặt chẽ sinh viên trong 2 tháng thực tập cuối khóa; đòi hỏi sinh viên phải viết và bảo vệ luận văn tốt nghiệp, xem đây là hình thức thi tốt nghiệp duy nhất có hiệu lực; cải cách phương pháp dạy theo hướng sử dụng máy phóng và máy chiếu hắt, giảm độc thoại, tăng cường đối thoại, tăng tỷ lệ thực hành và tiếp xúc thực tế, tăng tỷ lệ xêmina, đi đôi với thúc đẩy sinh viên tự học, tự nghiên cứu nhiều hơn… đều là những biện pháp đòi hỏi công phu hướng dẫn của người thầy nhiều hơn, do đó, đòi hỏi chi phí nhiều hơn.
Những biện pháp nêu trên đương nhiên được Bộ Giáo dục – Đào tạo khuyến khích, song, không xem là bắt buộc đối với tất cả các trường đại học. Lựa chọn các biện pháp ấy có nghĩa là chấp nhận những chi phí cao.
Ở đây, càng thấy rõ tính chất ưu việt của tổ chức phi lợi nhuận so với tổ chức kinh doanh. Trường ta, với tính cách là một tổ chức phi lợi nhuận, không phải chịu sức ép của mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, vì thế, có thể sử dụng một phần lớn số dư tài chính vào việc nâng cao chất lượng đào tạo. Những biện pháp này, nếu nhìn từ góc độ kinh doanh thì có thể xem là tốn kém, có thể loại bỏ để gia tăng lợi nhuận.
Những việc nêu trên, phải chăng đại học công lập không biết và không làm được? Không phải vậy. Đại học công lập hoàn toàn đủ năng lực làm những việc đó. Song, muốn làm thì phải được phép tăng mức học phí, hoặc nếu không thì phải được trợ cấp bổ sung từ ngân sách Nhà nước. Cả hai việc này không phải lúc nào cũng được Bộ Giáo dục – Đào tạo và Bộ Tài chính phê chuẩn. Trong khi đó thì đại học dân lập có thể tự mình quyết định, miễn là được người học chấp nhận. Điều này cũng chẳng khác nào mua bán theo giá Nhà nước và mua bán theo giá thỏa thuận những năm trước đây.
Ngoài cơ chế hành chính nêu trên, còn có vấn đề động cơ, động lực nữa. Chừng nào mà chính sách đòn bẩy trong khu vực quốc doanh còn chưa tạo ra được những động cơ, động lực đủ mạnh thì những người lao động trong khu vực này (bao gồm cả những người quản lý) vẫn cảm thấy đi theo nếp mòn là an toàn hơn. Năng động sáng tạo mà làm gì, nếu gặp rủi ro thì mình gánh chịu, còn khi thành công thì lợi ích chẳng thấy đâu? Vả chăng, chẳng năng động sáng tạo thì đã sao? Đã có hậu thuẫn vững chắc của ngân sách Nhà nước! Học phí thấp thì có bao giờ thiếu sinh viên đâu? Đối với dân lập thì khác. Trong điều kiện không có hậu thuẫn nào từ ngân sách Nhà nước, nếu không tìm tòi, đổi mới, năng động, sáng tạo, thì tồn tại đã khó, nói gì đến phát triển? Mà lợi ích của mỗi người và của tất cả mọi người đều phụ thuộc vào sự tồn tại và phát triển ấy.
- Để đào tạo có chất lượng, phải có một số thiết bị nhất định, điều này đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Chẳng hạn, muốn cho sinh viên sử dụng được thành thạo máy vi tính thì số tiết học Tin học phải đưa lên bằng 3-4 lần mức quy định của Bộ, trong đó, số tiết thực hành trên máy phải chiếm 1/2, và trong giờ thực hành, mỗi sinh viên phải có một máy. Nếu tính trên đầu sinh viên thì số máy vi tính của Trường ta gấp mấy lần số máy của các trường công lập cùng loại. Để đạt được mức trang bị như trên – về máy vi tính và về một số thiết bị giảng dạy khác – Trường ta đã phải đầu tư 10 tỷ đồng. Lấy đâu ra số vốn lớn như thế? Chỉ bằng cách góp gió thành bão: Tập hợp những khoản tiền tiết kiệm của hơn 300 “cổ đông” dưới hình thức “góp vốn” (góp vốn nhưng không chia lãi, chỉ hưởng lãi suất cố định như gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng).
Để có được số tiền này, trường công lập chỉ có một cách là xin ngân sách Nhà nước cấp phát. Vốn đầu tư của trường dân lập thì được sinh viên hoàn lại dưới hình thức học phí, còn vốn ngân sách Nhà nước cấp phát cho trường công lập thì coi như cho không. Chính điều này lại là hạn chế đối với trường công lập. Mặt trái của chế độ bao cấp là vậy.
Dân lập với tính cách là một tổ chức kinh doanh và với tính cách là một tổ chức “phi lợi nhuận”
- Cùng với chủ trương “xã hội hóa giáo dục” thì thuật ngữ “thương mại hóa giáo dục” cũng được đưa ra như một điều cấm kỵ – một điều được xem là đi ngược lại ý nghĩa cao cả của giáo dục mà cần phải loại bỏ. Vậy phải hiểu thế nào là “thương mại hóa”, và thế nào là “thương mại hóa giáo dục”?
Theo khoa học kinh tế mác-xít thì hàng hóa không đơn thuần là một vật phẩm, mà trước hết là một quan hệ xã hội. Người nông dân sản xuất ra thóc, nếu dùng thóc ấy để ăn thì thóc không phải là hàng hóa. Chỉ khi đem thóc bán cho người khác, nghĩa là trong một quan hệ xã hội nhất định – quan hệ trao đổi – thì thóc mới biến thành hàng hóa.
Nếu người nông dân đem thóc bán cho một người trung gian, người này mua không phải để ăn mà để đem bán lại cho một người thứ ba thì lúc này, xuất hiện thêm một quan hệ xã hội nữa: quan hệ mua để bán, tức là thương mại. Khi tiến hành hoạt động thương mại, thương nhân không làm công không cho người khác, mà phải kiếm được chút “lời” nào đó. Lời này là do chính người sản xuất thóc “nhường” cho – nhường không phải vì lòng tốt, mà vì lợi ích của chính người sản xuất và của chính sản xuất. Nhờ vậy mà thóc do thương nhân bán ra thị trường vẫn theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là giá trị được đổi lấy giá trị tương đương, không ai ăn lận của ai cả. Chính là nhờ có thương mại – sản phẩm của cuộc đại phân công lao động xã hội lần thứ ba – mà sản xuất xã hội chuyển lên một bước phát triển mới, loài người chuyển lên một bước phát triển mới.
Với bản chất như vậy thì thương mại đâu có gì là xấu xa như các lãnh chúa phong kiến đã một thời gán cho nó? Bọn này rất sợ thương mại làm lỏng lẻo, tan rã nền kinh tế tự nhiên, trì trệ, đóng kín, đang giam hãm nông nô và nông dân trong vòng kiềm tỏa của chúng.
Ngày nay, sau 5 thế kỷ thương mại phát triển theo hướng toàn cầu hóa và đóng vai trò đòn bẩy đối với sự phát triển như vũ bão của các lực lượng sản xuất, mà còn gán cho thương mại những thiên kiến của một thời cổ lỗ thì quả là điều không thích hợp. Dù cho giáo dục có được thương mại hóa thì thương mại hóa có tội tình gì? Ngay các sản phẩm siêu đẳng của trí tuệ như phát minh, sáng chế, bí quyết công nghệ, bản quyền tác giả… đã chẳng biến thành đối tượng của thương mại đó sao? Đâu phải vì thế mà ý nghĩa cao cả của trí tuệ bị hạ thấp đi?
Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo (dưới đây gọi tắt là đào tạo) lại chưa bao giờ trở thành đối tượng của thương mại. Vì một lẽ đơn giản: dịch vụ đào tạo, cũng như mọi dịch vụ khác, là một sản phẩm phi vật thể, và vì thế, không thể mua để rồi bán lại. Dịch vụ ấy phải được tiêu dùng cùng lúc khi nó được sản xuất ra: khi người thầy truyền thụ kiến thức thì cũng là lúc học trò tiếp nhận kiến thức. Hai quá trình sản xuất và tiêu dùng không thể tách rời, và vì thế, không cho phép thương nhân đứng ra làm trung gian.
Dịch vụ đào tạo không thể là đối tượng của thương mại, nhưng vẫn có thể là đối tượng của kinh doanh. Trong trường hợp này, dịch vụ đào tạo được bán ra thị trường như bất cứ hàng hóa nào khác, còn doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thì thu được lợi nhuận. Có những doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận bằng cách cung cấp dịch vụ chất lượng cao mang tính cạnh tranh, nhưng cũng không ít doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận bằng cách cung cấp dịch vụ chất lượng tồi. Cũng giống như thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ không hiếm “hàng rởm” và “hàng nhái”.
Các trường đại học nước ngoài đến Việt Nam mở trường lớp đâu phải vì ý tưởng cao cả muốn đào tạo nhân tài cho Việt Nam? Ý tưởng này nếu có cũng chỉ là thứ yếu. Mục tiêu của họ là tìm kiếm lợi nhuận. Nhiều nước phát triển đã chẳng coi ngành đào tạo của họ là một ngành xuất khẩu dịch vụ quan trọng đó sao?
Trong một xã hội mà mọi sản phẩm, kể cả sản phẩm trí tuệ, đều trở thành hàng hóa thì dịch vụ đào tạo cũng vậy, có gì là bất thường khi nó phải thông qua quan hệ hàng hóa mới thực hiện được? Và quan hệ hàng hóa ấy (ngoại trừ những sự bịp bợm – mà bịp bợm thì trong quan hệ nào mà chẳng có?) có gì là đáng chê trách nếu nó thúc đẩy việc phổ biến và nâng cao kiến thức, thúc đẩy sự phát triển của xã hội?
- Chỉ trong trường hợp Nhà nước cung cấp dịch vụ đào tạo mà không thu học phí, thì dịch vụ này mới rũ bỏ được quan hệ hàng hóa. Điều này chỉ có thể đạt được khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trước mắt, với mức thu nhập quốc dân đầu người rất thấp của nước ta mà thực hiện được một phần nguyên tắc này (ví dụ ở bậc tiểu học, trung học) đã là điều đáng trân trọng lắm rồi. Đòi hỏi cao hơn điều kiện kinh tế cho phép thì chỉ là ảo tưởng, duy ý chí.
- Như vậy, trong 3 phương thức triển khai dịch vụ đào tạo nêu trên thì 2 phương thức rõ ràng là không thích hợp với trường dân lập.
Trường dân lập không thể “thương mại hóa giáo dục”, vì giáo dục chưa bao giờ là đối tượng của thương mại. (Khi dùng thuật ngữ thương mại hóa giáo dục với nghĩa xấu, thực ra đã có sự nhầm lẫn về kinh tế học: 1) coi sản xuất hàng hóa và dịch vụ đồng nghĩa với thương mại, và 2) nhìn nhận thương mại với con mắt thiên kiến của thời phong kiến).
Trường dân lập cũng không thể bao cấp học phí như Nhà nước, bởi Nhà nước là cơ quan quyền lực, có quyền thu thuế của dân để lo liệu cho dân.
Chỉ còn lại phương thức: cung cấp dịch vụ đào tạo với điều kiện người học phải hoàn lại kinh phí đào tạo dưới hình thức học phí. Nói theo thuật ngữ của kinh tế thị trường thì trường bán dịch vụ đào tạo như một hàng hóa. Trong điều kiện kinh tế thị trường thì còn có cách nào khác để người nọ phục vụ cho người kia?
Hàng hóa (hay dịch vụ) phải được bán theo giá trị, đó là quy luật chung nhất của kinh tế thị trường. Trong điều kiện hàng hóa (hay dịch vụ) được bán theo giá trị, người sản xuất hàng hóa (hay dịch vụ) vẫn có thể rơi vào 1 trong 3 trạng huống: hoặc có lãi, hoặc bị lỗ, hoặc hòa vốn, tùy theo hàng hóa (hay dịch vụ) được sản xuất ra với giá trị cá biệt thấp hơn, cao hơn hay là bằng giá trị thị trường. Trường dân lập cũng có thể rơi vào 1 trong 3 trạng huống đó, giống như bất cứ cơ sở sản xuất hàng hóa hay dịch vụ nào khác.
Nếu chi phí vượt quá nguồn thu (học phí) thì trường bị lỗ. Lỗ mãi mà không có biện pháp khắc phục thì mất vốn, phải đóng cửa.
Nếu chi phí bằng nguồn thu thì tạm thời có thể tồn tại, nhưng không có điều kiện phát triển, gặp rủi ro thì tụt ngay xuống tình trạng bị lỗ.
Nếu chi phí thấp hơn nguồn thu thì sẽ có được số dư (thông thường gọi là lãi, tuy nhiên cách gọi này không phải lúc nào cũng đúng).
- Tùy theo số dư được sử dụng theo hướng nào mà trường dân lập rẽ nhánh thành 2 loại: hoặc đó là một tổ chức kinh doanh, hoặc đó là một tổ chức phi lợi nhuận.
Nếu số dư được đem chia cho những người góp vốn dưới hình thức “chia lãi” hay “cổ tức” thì đó là một tổ chức kinh doanh. Trong trường hợp này, điều lệ tổ chức và hoạt động của trường được thiết kế giống như điều lệ của một cơ sở kinh doanh – một doanh nghiệp tư nhân hay một công ty hợp danh, một công ty trách nhiệm hữu hạn, một công ty cổ phần, một công ty liên doanh với nước ngoài, một công ty 100% vốn nước ngoài. Đã đăng ký và hoạt động như một cơ sở kinh doanh thì phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp và phải tuân thủ các điều khoản khác của luật doanh nghiệp. Trên thế giới, không ít trường dân lập được tổ chức theo mô hình này.
Nếu số dư không được đem chia cho những người góp vốn dưới hình thức “chia lãi” hay “cổ tức”, mà được “tái đầu tư” vào sự nghiệp đào tạo thì đó là một tổ chức phi lợi nhuận. Đăng ký và hoạt động như một tổ chức phi lợi nhuận thì được luật pháp ưu đãi theo quy chế dành riêng cho các tổ chức phi lợi nhuận. Nhiều trường dân lập trên thế giới đã lựa chọn mô hình này.
- Phi lợi nhuậnkhông nên hiểu là chỉ được phép thu vừa vặn đủ chi, không còn một khoản dư nào cả. Nếu không có một số dư nhất định thì lấy gì dự phòng để ứng phó với những rủi ro, biến động (lạm phát, đồng tiền lên – xuống giá, v.v….)? Nếu không có một số dư nhất định thì lấy gì để nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, lấy gì để phát triển sự nghiệp đào tạo theo kịp với thời đại?
Không phải bất cứ số dư nào cũng đều là lãi, hay lợi nhuận. Lợi nhuận trước hết là một quan hệ xã hội. Chỉ trong một quan hệ xã hội nhất định – ở đây là quan hệ giữa góp vốn và chia lãi – thì số dư mới biến thành lợi nhuận. Số dư dù lớn đến bao nhiêu vẫn không biến thành lợi nhuận, nếu nó không được chia cho những người góp vốn dưới hình thức “chia lãi” hay “cổ tức”. Như vậy, chia lãi hay không chia lãi là ranh giới phân biệt một tổ chức kinh doanh với một tổ chức phi lợi nhuận.
Tính chất phi lợi nhuận không hề hạn chế các trường dân lập tìm cách tăng số dư của mình lên, để dựa vào số dư này, nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, cải thiện điều kiện hoạt động cho cán bộ nhân viên và sinh viên, tăng quỹ dự phòng và quỹ phát triển, tóm lại là để phát triển hơn nữa sự nghiệp cao cả của mình là đào tạo nhân tài cho đất nước.
- Để có được số dư, không phải cứ thu học phí cho cao là được. Số dư là kết quả tổng hợp của một loạt yếu tố có liên quan mật thiết với nhau, chủ yếu là các yếu tố sau đây: (1) Mức học phí mà xã hội chấp nhận là bao nhiêu? (2) Tương ứng với mức học phí ấy thì dịch vụ đào tạo phải đạt chất lượng như thế nào? (3) Để đảm bảo chất lượng của dịch vụ đào tạo tương ứng với mức học phí ấy thì phải chi những khoản gì? (4) Các khoản chi phải được xử lý như thế nào cho có hiệu quả cao nhất?
Giống như giá cả của mọi dịch vụ khác, giá cả của dịch vụ đào tạo (học phí) cũng bị quy định bởi mặt bằng giá cả của xã hội (mặt bằng này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố kinh tế – xã hội). Một năm học đại học ở Mỹ trung bình phải trả học phí khoảng 10.000 USD, ở châu Âu khoảng 4.000 USD, ở Việt Nam khoảng 200 USD. Không thể giải thích sự chênh lệch này chỉ bằng hoặc chủ yếu bằng chất lượng của dịch vụ đào tạo. Điều này cũng giống như một bát phở ở Mỹ phải trả 7 USD, ở Hà Nội chỉ 0,4 USD, trong khi bát phở ở Hà Nội ngon hơn bát phở ở Mỹ. Ở Việt Nam mà đòi học phí cao bằng châu Âu hoặc Mỹ thì cũng chẳng khác nào đòi 7 USD/một bát phở. Bị khống chế bởi mặt bằng giá cả của xã hội, đến lượt nó, học phí lại là cái trần mà dưới đó, anh phải chi như thế nào thì mới đạt được số dư. Ngoài học phí, trường dân lập còn phải phấn đấu đa dạng hóa các nguồn thu (bằng dịch vụ nghiên cứu khoa học, dịch vụ tư vấn, v.v…) mới mong đạt được số dư.
Trong một xã hội xác định, khi mức học phí nói chung đã bị khống chế bởi mặt bằng giá cả của xã hội thì học phí của các trường có thể chênh lệch nhau ít hay nhiều tùy thuộc vào chất lượng của dịch vụ đào tạo, trong đó, quan trọng nhất là chất lượng đào tạo. Chất lượng đào tạo tồi thì đòi sao được học phí cao? Trong điều kiện học phí của các trường dân lập nhất định là cao hơn học phí của các trường công lập thì phải thấy đây là một sức ép lớn buộc các trường dân lập phải phấn đấu để đạt được chất lượng đào tạo cao. Không vượt được thách thức ấy thì tồn tại đã khó, nói gì đến số dư?
Nhưng để đạt được chất lượng đào tạo cao thì chi phí cũng phải cao. Không tuyển dụng được một đội ngũ giảng viên có bề dày kiến thức và kinh nghiệm, đạt được hiệu quả giảng dạy cao (tất nhiên là phải trả lương cao), thì nói gì đến chất lượng đào tạo cao? Không bảo đảm được cho mỗi sinh viên một máy vi tính trong giờ thực hành và nhiều phương tiện khác, thì nói gì đến chất lượng đào tạo cao?
Để bảo đảm được chất lượng đào tạo cao thì phải chấp nhận những chi phí lớn. Nhưng chi như thế nào lại là quan trọng hơn. Nhiều phòng học và phòng máy bị bỏ trống, nhiều máy móc thiết bị hiện đại chỉ dùng một phần nhỏ công suất, nhiều bộ máy quản lý bày ra mà không có đóng góp thiết thực, nhiều cán bộ nhân viên lĩnh đủ lương mà không làm đẫy việc, nhiều hội nghị hội thảo mang tính phô trương hình thức…, chi như thế thì không “sập tiệm” đã là may, nói gì đến số dư?
Xử lý các vấn đề nêu trên là giải một bài toán phức hợp. Đáp số của bài toán phải là: đạt được chất lượng đào tạo cao với chi phí tiết kiệm, hợp lý nhất.
Mô hình dân lập của Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Sau khi xem xét những đặc điểm chung của trường dân lập – cũng tức là mô hình dân lập nói chung – chúng ta có điều kiện xem xét cụ thể hơn mô hình dân lập của Trường ta. Mô hình ở đây được hiểu là hệ thống các đặc trưng của một hiện tượng xã hội mà qua đó, ta nhận biết được hiện tượng ấy.
Để đi đến mô hình như hiện nay, chúng ta đã phải trải qua một quá trình trăn trở, thử nghiệm, tranh luận, lựa chọn không dễ dàng gì, bây giờ nhắc lại cũng là điều bổ ích – cổ nhân có câu “ôn cố nhi tri tân”.
Phi lợi nhuận
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng sáng lập và tiếp sau đó, một vấn đề rất cơ bản được nêu lên: Trường ta nên tổ chức theo mô hình nào? Mô hình công ty cổ phần? Mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn? Hay mô hình hợp tác xã? Về đại thể, có 3 quan điểm được đưa ra.
Quan điểm thứ nhất cho rằng nên tổ chức theo mô hình công ty cổ phần.
Để lập trường đại học, phải vừa có trí thức, vừa có vốn, nghĩa là phải tập hợp được một lực lượng đông đảo các nhà trí thức và các nhà doanh nghiệp. Công ty cổ phần là hình thức thích hợp nhất để chứa đựng một lực lượng đông đảo và đa dạng như vậy.
Đã là công ty cổ phần thì không phải ai cũng có quyền quyết định ngang nhau, mà phải dành ưu thế cho các thành viên sáng lập. Về lợi ích thì cổ phần sáng lập cũng phải được hưởng cao hơn cổ phần thường.
Trong tương lai, với tính cách là công ty cổ phần, chúng ta có thể phát hành cổ phiếu và đăng ký trên thị trường chứng khoán – một điều rất có lợi cho sức mạnh kinh tế của Trường.
Quan điểm thứ hai cho rằng thành viên sáng lập tuy đông, nhưng thật sự đầu tư công sức và trí tuệ để dựng lên Trường, thật sự nắm quyền quyết định, thì chỉ là một số ít người chủ chốt trong Hội đồng sáng lập.
Như vậy thì cần gì phải lập công ty cổ phần cho cồng kềnh, rồi lại phải phân định ai có quyền nhiều, ai có quyền ít, ai được hưởng lợi nhiều, ai được hưởng lợi ít? Mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn có cái lợi là gọn nhẹ hơn, hiệu lực hơn, tránh được nhiều quy định phiền phức.
Quan điểm thứ ba cho rằng cả 2 mô hình nêu trên đều nhằm hướng xây dựng Trường thành một tổ chức kinh doanh, cả 2 mô hình đều mang đặc điểm chung của mô hình công ty kinh doanh. Đối với chúng ta, mô hình công ty có nhiều điều không thích hợp:
1- Chúng ta không phải vì mục đích kinh doanh mà đứng ra thành lập trường. Là những cán bộ cách mạng được nghỉ hưu sau 40-50 năm công tác, vì còn sức khỏe, chúng ta muốn đem kiến thức và kinh nghiệm đã tích lũy được qua một đời người để chuyển giao cho thế hệ trẻ – kỷ niệm cho thế hệ trẻ một cái trường cho ra trường.Trường đại học dân lập đối với chúng ta chỉ là một phương thức để tiếp tục thực hiện lý tưởng cách mạng, chứ không phải là một phương tiện để tìm kiếm lợi nhuận.
2- Theo mô hình công ty thì ai bỏ vốn nhiều, người ấy phải nắm quyền chi phối. Trường đại học cần vốn thật, nhưng năng lực trí tuệ mới là quyết định. Quyền lãnh đạo trường đại học phải trao vào tay những người có năng lực trí tuệ và đạo đức thì mới tồn tại và phát triển được. Người có vốn nhiều không nhất định là người có đủ năng lực trí tuệ và đạo đức để lãnh đạo trường đại học. Chúng ta đã từng từ chối đề nghị của một số công ty sẵn sàng cung cấp đất đai và tài chính để xây trường, chỉ với yêu cầu được giữ địa vị “xứng đáng” trong Hội đồng quản trị.
3- Một công ty có thể chấm dứt hoạt động bất cứ lúc nào theo quyết định của các chủ sở hữu, còn một trường đại học thì lại không thể như vậy. Trường đại học có thể ví như một dây chuyền đúc thép liên tục, lúc nào cũng có nguyên liệu vào lò, lúc nào cũng có nguyên liệu đang nung trong lò và lúc nào cũng có thép sản phẩm ra lò. Trường bỗng nhiên ngừng hoạt động thì cũng có nghĩa là phá tung các cam kết xã hội với hàng vạn người, hậu quả rất phức tạp. Vì vậy, đã lập trường đại học thì phải bảo đảm cho nó trường tồn với lịch sử. Điều này có nghĩa là chế độ sở hữu của một số ít người không hoàn toàn thích hợp với trường đại học. Trường đại học phải được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác một cách tự nhiên, liên tục, chứ không thể như một công ty, muốn chuyển giao sở hữu thì phải qua mua bán giữa chủ cũ và chủ mới.
4- Nếu xây dựng Trường theo mô hình công ty thì đến một lúc nào đó, các chủ sở hữu công ty sẽ phải trao quyền thừa kế cho con cháu. Người ta có thể trao quyền thừa kế một tài sản – một công ty, chứ không thể trao quyền thừa kế một trường đại học. Đã chắc gì những người thừa kế có đủ năng lực trí tuệ và phẩm chất để điều hành trường đại học như những người sáng lập?
5- Theo mô hình công ty thì phải lấy việc tìm kiếm lợi nhuận làm mục đích. Lợi nhuận được phân phối dưới hình thức “chia lãi” nếu là công ty trách nhiệm hữu hạn, dưới hình thức “cổ tức” nếu là công ty cổ phần. Đã chia lợi nhuận thì phải lấy từ số dư tài chính hàng năm, phần còn lại mới dành làm quỹ phát triển. Nhưng nếu là tổ chức phi lợi nhuận thì toàn bộ số dư tài chính hàng năm sẽ được để lại Trường làm quỹ phát triển. Như vậy thì Trường sẽ có nhiều điều kiện hơn để nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển theo kịp thời đại, điều này có lợi hơn cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Từ những căn cứ nêu trên, quan điểm thứ ba đề nghị loại bỏ mô hình công ty – bất cứ công ty thuộc loại hình nào – để chọn mô hình hợp tác xã. Nội dung cụ thể như sau:
a- Trường ta tự xác định mình là tổ chức hợp tác của những người lao động trí óc, tự nguyện góp sức góp vốn để xây dựng Trường bền vững, vì mục đích đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, không vì mục đích lợi nhuận.
Đây là đặc trưng cơ bản nhất của Trường ta, là khái quát tôn chỉ mục đích của Trường ta – một tổ chức phi lợi nhuận của các nhà trí thức tự nguyện theo đuổi một sự nghiệp trường tồn, bền vững, lấy đào tạo nhân tài cho đất nước làm mục đích, làm lý tưởng.
b- Tổ chức hợp tác của chúng ta là một tổ chức mở, có thành phần rộng rãi nhất. Nó không đóng kín trong một số ít người sở hữu như công ty trách nhiệm hữu hạn, không dành quyền quyết định ưu thế cho một nhóm thành viên sáng lập như công ty cổ phần. Nó mở cửa đối với tất cả những người lao động làm việc cho Trường, mở cửa đối với cả những cộng tác viên nhiệt tâm với sự nghiệp của Trường. Mọi thành viên của tổ chức hợp tác đều có quyền bình đẳng như nhau, đều có quyền quyết định ngang nhau – mỗi người một phiếu.
Với thành phần như trên, Trường sẽ trở thành một tổ chức dân chủ – tự quản, trong đó, mọi người đều có địa vị làm chủ, mọi người đều thấy trách nhiệm và nghĩa vụ làm chủ của mình, khắc phục dần tâm lý làm thuê đã thành thói quen của người lao động qua nhiều đời nay. Điều này cho phép đạt được năng suất lao động ngày càng cao, hiệu quả kinh tế ngày càng lớn.
Là một tổ chức mở, Trường sẽ luôn luôn hấp thụ được những sinh lực mới từ các thế hệ, làm cho nó luôn luôn năng động, theo kịp với thời đại, đồng thời tạo cho nó khả năng trường tồn với lịch sử thông qua sự chuyển giao thế hệ ngay trong lòng nó, chứ không phải thông qua quyền thừa kế tài sản từ đời cha sang đời con của các ông chủ công ty hoặc thông qua mua bán quyền sở hữu tài sản của công ty.
c- Để xác định tư cách thành viên của tổ chức thì mỗi thành viên phải góp một số vốn nhất định. Vì Trường cần có nhiều vốn để đầu tư cho nên không hạn định mức góp tối đa. Tuy nhiên, dù góp ít hay góp nhiều thì mỗi thành viên cũng chỉ có một phiếu khi biểu quyết. Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của mô hình hợp tác xã.
Nguyên tắc “mỗi người một phiếu” bảo đảm cho Trường không bị chi phối bởi những người có nhiều vốn góp. Việc bầu những người lãnh đạo Trường nằm trong tay tất cả các thành viên, không phụ thuộc vào vốn góp nhiều hay ít, chỉ phụ thuộc vào sự tín nhiệm do năng lực trí tuệ và phẩm chất đạo đức tạo nên. Trường cũng sẽ không bao giờ bị bán đứng cho những người nắm cổ phần khống chế, người trong nước cũng như người nước ngoài – một nguy cơ mà công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn đều có thể tạo ra.
Với những luận cứ trên đây, quan điểm thứ ba – cũng là quan điểm của những thành viên chủ chốt của Hội đồng sáng lập – đã thuyết phục được toàn thể các thành viên sáng lập, vì vậy, Điều lệ tổ chức và hoạt động của Trường đã được thiết kế trên quan điểm đó.
Tự quản
- Trường ta được xây dựng như một tổ chức hợp tác của những người lao động trí óc, nói rộng ra là tổ chức hợp tác của những người lao động làm việc cho Trường. Điều đó không có nghĩa là tất cả công nhân viên chức thuộc bộ máy của Trường đều đương nhiên là thành viên của tổ chức hợp tác ấy. Không ít người chỉ muốn làm việc cho Trường trong một thời gian mà không có ý định gắn bó lâu dài với Trường.
Đã là một tổ chức, nhất là một tổ chức có ý định trường tồn với lịch sử, thì phải có thành viên tham gia, người nào muốn tham gia làm thành viên phải đáp ứng một số điều kiện nhất định, các thành viên phải có nghĩa vụ và quyền lợi ràng buộc với tổ chức, bản thân tổ chức phải có thể chế làm cho nó vận hành có trật tự và có khả năng giải quyết các xung đột nếu xảy ra. Tóm lại, tổ chức hợp tác của những người lao động Trường ta được xây dựng thành một tổ chức có hình thù rõ rệt, có cơ cấu riêng, có thể chế riêng, tự quản – khác với nhiều trường đại học dân lập chỉ có một số sáng lập viên phân công nhau nắm giữ các vị trí chủ chốt của Trường.
Nói một cách hình ảnh thì trong Trường ta có một tổ chức xã hội nghề nghiệp mang tính tự quản của các nhà trí thức – hay một “hợp tác xã” – lồng ghép vào bộ máy của Trường, làm hạt nhân cho bộ máy của Trường, và là chủ sở hữu tập thể của Trường (dưới đây gọi là hợp tác xã cho gọn).
Tuy lồng ghép vào bộ máy của Trường, hòa quyện với bộ máy của Trường, hợp tác xã vẫn là một cơ cấu riêng, vận hành theo luật lệ riêng. Cổ đông, Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát, đó chính là cơ cấu đặc trưng của mô hình hợp tác xã. Trường đại học không có cơ cấu ấy. Cơ cấu của trường đại học gồm có Ban Giám hiệu, Hội đồng khoa học, các khoa, các tổ bộ môn, các phòng ban chức năng. Hợp tác xã thì vận hành theo luật lệ của hợp tác xã, còn trường đại học thì vận hành theo luật pháp Nhà nước và các quy chế của Bộ Giáo dục – Đào tạo. Cơ cấu và luật lệ của hợp tác xã là thuộc quyền chế định của hợp tác xã; miễn là nó không vi phạm luật pháp thì cơ quan Nhà nước không có quyền can thiệp. Cơ cấu và luật lệ của trường đại học thì phải tuân thủ luật pháp và các chế định của Bộ Giáo dục – Đào tạo. Hai loại luật lệ và hai loại thẩm quyền phải được phân định rành mạch. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Trường ta là văn bản trình bày hợp nhất cả 2 cơ cấu và 2 luật lệ đó.
Vì bộ máy của hợp tác xã được lồng ghép với bộ máy của trường đại học cho nên có một số chức danh của hợp tác xã mang dáng dấp chức danh Nhà nước. Điển hình là chức danh Hiệu trưởng. Hiệu trưởng là thành viên của hợp tác xã, do Hội đồng quản trị của hợp tác xã cử ra. Chức danh này phải được Nhà nước công nhận (bằng một quyết định công nhận hay bổ nhiệm) thì mới có quyền ký các văn bằng có giá trị pháp lý. Cùng một chức danh mà về mặt này thì mang dấu ấn của hợp tác xã, về mặt khác thì mang dấu ấn của Nhà nước. Tuy nhiên, xét cho cùng, nó vẫn là chức danh của hợp tác xã, Nhà nước chỉ công nhận hoặc không công nhận. Trong trường hợp không công nhận, Nhà nước không có quyền chỉ định người khác thay cho hợp tác xã, mà chỉ yêu cầu hợp tác xã tìm chọn người khác. Đối với chức danh thành viên Hội đồng quản trị và Chủ tịch Hội đồng quản trị (cũng tức là Chủ nhiệm hợp tác xã) thì khác. Đây là những chức danh thuần túy mang tính chất hợp tác xã và chỉ thuộc thẩm quyền của hợp tác xã. Đáng tiếc là sự phân định này chưa được làm rõ cho nên đã xảy ra những sự nhầm lẫn không đáng có như: trong Quy chế Nhà nước, có điều khoản quy định Hội đồng quản trị của các trường đại học dân lập phải gồm có những thành phần nào; Bộ Giáo dục – Đào tạo đã có lần quyết định bãi chức Chủ tịch Hội đồng quản trị của một trường đại học dân lập và chỉ định một người ở nơi khác về thay thế. Đây phải chăng là những di sản của cơ chế “Nhà nước quyết định tất cả” mà trên con đường đi tới “Nhà nước pháp quyền” chúng ta còn chưa có đủ thời gian để dọn dẹp?
- Quan hệ giữa Trường và hợp tác xã tự quản của Trường với Trung ương Hội cũng là điều cần làm rõ.
Trung ương Hội Khoa học kinh tế Việt Nam là cơ quan đã đưa ra chủ trương thành lập trường đại học dân lập, đã lựa chọn các nhà trí thức có bề dày kiến thức và kinh nghiệm để mời vào Hội đồng sáng lập Trường, đã trình Thủ tướng Chính phủ kiến nghị cho phép thành lập Trường. (Ở nhiều nước trên thế giới, luật pháp không đòi hỏi các hội khoa học phải đứng ra xin phép thành lập trường đại học. Ai muốn thành lập thì người đó đứng ra làm thủ tục đăng ký). Khi Trường được phép thành lập thì nó mang danh nghĩa là một tổ chức trực thuộc Trung ương Hội.
“Trực thuộc Trung ương Hội”, thuật ngữ này cần được hiểu theo nghĩa như thế nào?
Ở nước ta, khái niệm “trực thuộc” đã trở nên quá quen thuộc và thường được hiểu theo một nghĩa: một công ty quốc doanh trực thuộc Bộ thì vốn do Bộ cấp, giám đốc do Bộ chỉ định, kế hoạch kinh doanh do Bộ quyết, phương án ăn chia do Bộ duyệt, Bộ là cơ quan chủ quản còn công ty là tổ chức thừa hành.
Trường hợp của Trường ta có khác.
1- Trung ương Hội không cấp vốn cho Trường (Hội có vốn đâu mà cấp?). Vốn của Trường là do các cổ đông góp lại.
2- Trung ương Hội không chỉ định Hiệu trưởng và Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị là do Đại hội cổ đông bầu ra. Hiệu trưởng là do Hội đồng quản trị cử ra và được Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo ra quyết định công nhận (bổ nhiệm).
3- Trường đại học dân lập, sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập thì có tư cách pháp nhân, hoạt động theo pháp luật Nhà nước và các quy chế của Bộ Giáo dục – Đào tạo. Trung ương Hội không có chức năng lãnh đạo và quản lý giáo dục đại học. Chức năng này thuộc về Bộ Giáo dục – Đào tạo.
4- Hợp tác xã đóng vai trò xây dựng Trường, làm nòng cốt cho bộ máy của Trường, và là chủ sở hữu tập thể của Trường, khởi đầu là do Trung ương Hội vận động thành lập, nhưng một khi được thành lập, nó trở thành một thực thể độc lập – một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự quản, có tài sản riêng, có điều lệ riêng, được Nhà nước thừa nhận và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật.
Nói một cách hình ảnh thì Trường và hợp tác xã của Trường chính là “con đẻ” của Trung ương Hội, nhưng sau khi nhận được giấy khai sinh thì nó trở thành pháp nhân độc lập, hoạt động theo pháp luật và trực tiếp chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Trung ương Hội không có quyền điều động vốn và tài sản của Trường như một Bộ chủ quản có quyền làm đối đối với một công ty quốc doanh trực thuộc, không có quyền chỉ định Hiệu trưởng và “Chủ nhiệm hợp tác xã”, không có quyền quyết định kế hoạch giảng dạy và đào tạo của Trường, không có quyền phê duyệt phương án ăn chia của hợp tác xã. Đặc điểm của sự hình thành trường dân lập tất yếu dẫn đến những hệ quả đó – những hệ quả mà Trung ương Hội chủ động dự kiến và xếp đặt phù hợp với quy định của pháp luật.
Như vậy thì phải chăng trường đại học dân lập “trực thuộc Trung ương Hội” đã hoàn toàn “tuột khỏi tay” Trung ương Hội? Không phải vậy.
a- Trường Đại học dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội mãi mãi là con đẻ tinh thần của Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam. Trường làm tốt thì Hội được tiếng thơm, Trường làm dở thì Hội chịu tiếng xấu. Trung ương Hội mãi mãi có trách nhiệm chăm lo cho Trường, bằng cách giới thiệu cho Trường những cán bộ tốt, gợi ý cho Trường những sáng kiến hay, chỉ đạo Trường hoạt động theo đúng tôn chỉ mục đích của Hội và pháp luật Nhà nước, trong khi vẫn tôn trọng quyền tự quản của hợp tác xã và địa vị pháp nhân của Trường.
b- Trách nhiệm không chỉ dừng lại ở con đẻ tinh thần. Nếu Trường để xảy ra chuyện bê bối thì Chính phủ vẫn yêu cầu Trung ương Hội có trách nhiệm đứng ra xử lý. Nếu Trường rơi vào tình thế phải giải thể thì Trung ương Hội là cơ quan duy nhất có quyền và có trách nhiệm trình Thủ tướng Chính phủ kiến nghị cho phép Trường giải thể.
c- Trung ương Hội có quyền yêu cầu Trường đóng góp tài chính cho Hội theo Quy định về nghĩa vụ tài chính của các tổ chức do Hội thành lập hoặc giúp đỡ thành lập.
d- Trung ương Hội có quyền yêu cầu Trường tham gia vào những hoạt động của Hội với tư cách là một tổ chức trực thuộc Trung ương Hội.
Đây là những ràng buộc của Trường với Trung ương Hội. Những ràng buộc này không giống những ràng buộc của các công ty quốc doanh trực thuộc với các Bộ chủ quản, nhưng vẫn là những ràng buộc.
- Quan hệ giữa Trường và hợp tác xã tự quản của Trường với Đảng ủy của Trường là một vấn đề đã từng được bàn bạc.
Trường ta có đặc điểm:
1- Số đảng viên tham gia Đảng bộ của Trường chỉ gồm 50 người, trong khi số đảng viên là cổ đông – tức thành viên của hợp tác xã – là 250 người. Như vậy, Đảng bộ và Đảng ủy của Trường không thể đại diện cho toàn thể đảng viên trong hợp tác xã.
2- Trường ta là một tổ chức hợp tác mang tính tự quản của những người lao động. Mỗi thành viên đều góp vốn và trở thành chủ sở hữu tập thể của Trường. Điều lệ của Trường quy định: cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Trường là Đại hội cổ đông, và giữa 2 kỳ Đại hội, là Hội đồng quản trị do Đại hội bầu ra; Ban Giám hiệu là cơ quan thường trực của Hội đồng quản trị. Nếu chấp nhận một cơ quan nào khác có thẩm quyền cao hơn hoặc ngang bằng các tổ chức nêu trên thì cơ chế vận hành của các tổ chức sẽ rối.
Trong điều kiện như vậy thì vai trò lãnh đạo của Đảng phải được thực hiện như thế nào?
Trước khi trả lời câu hỏi này, phải trở lại với quan điểm của Đảng về lãnh đạo.
Lãnh đạo không đồng nghĩa với chỉ huy, ra lệnh. Lãnh đạo là vận động, thuyết phục người khác chấp nhận và làm theo đường lối đúng của Đảng. Không có đường lối đúng thì không thuyết phục được ai theo. Có đường lối đúng mà không vận động thuyết phục thì cũng chẳng có ai theo.
Đảng ta, từ khi ra đời cho đến Cách mạng tháng Tám, đã lãnh đạo nhân dân theo phương cách đó. Kết quả là chỉ với 5.000 đảng viên, đã thuyết phục được hàng triệu người đứng lên làm cuộc khởi nghĩa thành công. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhất là ở vùng sau lưng địch, cũng vậy. Nhưng từ sau khi giành được chính quyền, nhiều đảng viên và Đảng bộ ỷ vào uy tín của Đảng và quyền lực của chính quyền, đã xa rời phương cách lãnh đạo của Đảng, chuyển sang chủ nghĩa quan liêu. Chính Lênin, và sau này là Hồ Chủ tịch, đã chỉ ra và phê phán kịch liệt tệ quan liêu trong Đảng.
Đòi cho Đảng ủy phải có một vị trí trong “bộ tam” “bộ tứ” để có ý kiến quyết định trong mọi việc to nhỏ của cơ quan, không phân biệt việc gì thuộc thẩm quyền của ai; ra các nghị quyết của Đảng ủy rồi yêu cầu chính quyền phải chấp hành, nghĩa là lợi dụng quyền lực của chính quyền để ra lệnh cho quần chúng; đó là những biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu trong Đảng. Ai không thỏa mãn những đòi hỏi nêu trên thì chụp cho cái mũ “xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng”!
Chúng ta hãy làm theo đúng nguyên tắc của Đảng: việc gì thuộc chức năng và thẩm quyền của cơ quan nào thì trả về cho cơ quan đó xử lý và chịu trách nhiệm. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là Đảng bao biện mọi việc, lấn sân của mọi người, biến mọi người thành bù nhìn. Làm theo nguyên tắc ấy thì Đảng ủy và Đảng bộ vẫn có một không gian rộng lớn để phát huy vai trò lãnh đạo:
1- Trong khi vẫn tôn trọng quyền làm chủ tập thể và quyền tự quản của hợp tác xã, tôn trọng Điều lệ của Trường, hãy xem xét mọi việc, thảo luận mọi việc, rút ra những nhận xét xác đáng, những sáng kiến hay, rồi kiến nghị, thuyết phục Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban Giám hiệu, qua đó mà biến những sáng kiến hay thành nghị quyết của hợp tác xã và của Trường. Đó mới chính là lãnh đạo.
Chẳng cần phải tổ chức một cơ quan hay một hội nghị liên tịch nào cả, bởi vì các Đảng ủy viên và đảng viên đều có sẵn vị trí trong tất cả các cơ quan của hợp tác xã và của Trường. Các đảng viên không sinh hoạt Đảng tại Đảng bộ của Trường thì đã có sẵn vị trí trong Đại hội cổ đông, nhiều đồng chí còn có vị trí trong Hội đồng quản trị, Ban Giám hiệu và Ban Kiểm soát.
2- Hãy phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của người đảng viên, lôi cuốn mọi người làm theo, xây dựng Trường ta thành một tổ chức vững mạnh, đạt chất lượng cao trên mọi lĩnh vực của dịch vụ đào tạo. Đó cũng chính là lãnh đạo.
3- Hãy làm tốt việc xây dựng chi bộ và Đảng bộ vững mạnh, đoàn kết, nhất trí, bồi dưỡng nhiều công nhân viên chức và sinh viên thành đảng viên, làm cho Đảng bộ thật sự đóng vai trò nòng cốt của Trường. Đó cũng chính là lãnh đạo.
4- Hãy lãnh đạo tốt Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên là các tổ chức quần chúng của Đảng, phát huy vai trò tự quản của họ, tính năng động sáng tạo của họ, nhằm dấy lên phong trào học tập tốt và rèn luyện tốt trong sinh viên. Đó cũng chính là lãnh đạo.
- Công đoàn có vị trí như thế nào trong Trường ta?Đây cũng là một vấn đề cần làm rõ.
Ở nước ta, các cơ quan, trường học đều có Công đoàn cơ sở mà mọi công nhân viên chức đều là đoàn viên.
Ở cơ quan, trường học, Công đoàn không có vai trò là công cụ đấu tranh giai cấp của công nhân chống lại áp bức bóc lột của tư bản. Vì vậy, chức năng bênh vực quyền lợi của công nhân viên chức thường là xoay quanh công việc chăm lo đời sống cho anh chị em; đôi khi cũng có đấu tranh chống những vi phạm chế độ chính sách đối với một số người. Quyền làm chủ của công nhân viên chức được phát huy chủ yếu thông qua Đại hội công nhân viên chức do Công đoàn kết hợp với Thủ trưởng cơ quan tổ chức mỗi năm một lần. Ngoài ra, để tiện tham khảo ý kiến của nhau trong mọi việc lớn nhỏ của cơ quan, người ta thường xuyên tổ chức các cuộc họp của “bộ tam” “bộ tứ” mà lâu ngày gần như biến thành một thể chế. Kể ra những chức năng nhiệm vụ theo văn bản thì dài, nhưng thực việc thì thường chỉ bấy nhiêu.
Khi Trường ta thành lập, nhiều người nghĩ rằng thành lập Công đoàn cơ sở cũng là điều đương nhiên. Nhưng, xét kỹ hơn thì vấn đề không đơn giản như vậy.
Trường ta là một hợp tác xã của những người lao động, thành phần của nó cũng bao gồm công nhân viên chức, kể từ Hiệu trưởng đến người quét trường. Nếu lập công đoàn thì hầu hết đoàn viên sẽ là thành viên của hợp tác xã. Lập ra 2 tổ chức có thành phần giống nhau thì có ý nghĩa gì?
Còn về chức năng thì hợp tác xã cũng có những chức năng giống như Công đoàn nhưng rộng hơn Công đoàn, về thẩm quyền thì lớn hơn Công đoàn. Lớn hơn vì nó là chủ sở hữu tập thể của Trường, có thẩm quyền quyết định mọi việc trong Trường thông qua Đại hội cổ đông. Nếu lập Công đoàn thì sẽ có thêm một cuộc họp là Đại hội công nhân viên chức. Đại hội này có nội dung giống hệt Đại hội cổ đông, nhưng thẩm quyền thì thấp hơn. Họp 2 cuộc đại hội có thành phần và nội dung giống hệt nhau thì có ý nghĩa gì?
Còn việc chăm lo đời sống cho anh chị em, nếu lập Công đoàn thì có năng lực gì hơn hợp tác xã?
Việc lập ra “bộ tam” “bộ tứ” thì chỉ là sự lẫn lộn chức năng của các tổ chức khác nhau, thực chất là nấp dưới cái vỏ dân chủ để lấn sân của nhau và đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Tuy nhiên, vẫn còn một điều cần tính đến: xét về thành phần thì hợp tác xã vẫn chưa bao gồm được hết công nhân viên chức của Trường. Một số người chưa tham gia vì chưa đáp ứng đủ điều kiện làm thành viên hợp tác xã. Một số người khác không có ý định tham gia vì không có ý định gắn bó lâu dài với Trường.
Những người này nếu có nguyện vọng thành lập Công đoàn thì Đảng ủy cơ quan cần lãnh đạo và giúp đỡ họ thành lập. Nhưng không nên vì thành lập Công đoàn mà ép buộc các thành viên của hợp tác xã phải nhận thêm một tư cách nữa mà xét cho cùng chỉ là tăng thêm số cuộc họp phải dự.
Vả chăng, Điều lệ của Công đoàn không chủ trương thành lập cơ sở trong các hợp tác xã – một loại hình tổ chức kinh tế xã hội mà thành viên đều là chủ sở hữu, ít nhất cũng là chủ sở hữu nhỏ – tiểu chủ. Dưới góc độ lý luận thì khó mà luận giải được nghịch lý: người chủ sở hữu lại đồng thời là công nhân làm thuê cho chính cơ sở mà mình sở hữu.
Dân chủ
- Nhìn vào các trường đại học dân lập ở nước ta thì thật là đa dạng. Có trường được tổ chức như một doanh nghiệp tư nhân, có trường được tổ chức như một công ty hợp danh giữa mấy sáng lập viên, có trường được tổ chức như một công ty trách nhiệm hữu hạn. Dù dưới dạng nào thì chế độ sở hữu và địa vị chi phối ở các trường này vẫn chỉ thuộc về một số ít người, thậm chí một người.
Trường ta được tổ chức theo mô hình hợp tác xã. Số cổ đông tính đến cuối năm 2001 là 308 người. Nhìn vào số lượng cổ đông đủ thấy tính chất dân chủ trong chế độ sở hữu của Trường ta. Dân chủ trong sở hữu tất yếu dẫn đến dân chủ trong quyết định, quản lý và phân phối.
Là một tổ chức có đông thành viên, lại có ý đồ trường tồn với lịch sử, Trường ta phải xây dựng và từng bước hoàn thiện “bộ luật” cho tổ chức của mình, sao cho nó vận hành thông suốt trong vòng trật tự, lại có khả năng giải quyết các xung đột nếu xảy ra. “Bộ luật” này phải được xây dựng trên nguyên tắc dân chủ như chế độ sở hữu quy định.
- Cổ đông– Vốn đầu tư tuy cần thiết nhưng không phải là yếu tố quyết định để dựng lên trường đại học. Năng lực trí tuệ mới là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, trí tuệ lại là một tài sản vô hình, rất khó lượng hóa. Trong nền kinh tế thị trường phát triển cao, người ta lượng hóa tài sản vô hình (phát minh, sáng chế, bí quyết công nghệ, uy tín của thương hiệu, v.v…) thành một số tiền nhất định thông qua thỏa thuận hoặc thông qua giá cả của thị trường chứng khoán, rồi trên cơ sở đó, dành cho những người cống hiến trí tuệ một số cổ phần nào đó – cổ phần để hưởng lợi nhuận mà không cần phải góp vốn bằng tiền. Đối với Trường ta mà làm theo cách đó thì chưa kịp hợp tác đã suy bì, chia rẽ rồi, làm sao mà dựng được Trường? Đó là lý do vì sao chúng ta gạt bỏ yếu tố góp vốn bằng trí tuệ, chỉ tính yếu tố góp vốn bằng tiền.
Vốn góp được gọi là cổ phần, người góp vốn được gọi là cổ đông. Gọi như thế chỉ là vì tiện dụng, vì những khái niệm này phản ánh bản chất của công ty kinh doanh, chỉ liên quan đến công ty kinh doanh. Cổ phần mà không được chia lợi nhuận thì sao gọi được là cổ phần? Đã không có cổ phần thì làm gì còn có cổ đông? Cùng một tên gọi, nhưng nội dung kinh tế thì khác. Điều này cũng giống như trong kinh tế xã hội chủ nghĩa, người ta sử dụng một số khái niệm của kinh tế tư bản chủ nghĩa như lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận. Nội hàm và bản chất của các khái niệm này đã bị “rút ruột” khi mà chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa đã thay thế chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.
Là một trường đại học, chúng ta không thể chỉ căn cứ vào khả năng góp vốn bằng tiền để thu nhận cổ đông. Ngoài việc góp vốn bằng tiền để xác lập tư cách cổ đông, người góp vốn còn phải có khả năng đóng góp công sức hay trí tuệ vào việc xây dựng Trường. Đó là lý do vì sao Trường ta chỉ thu nhận 3 loại người làm cổ đông: (1) các thành viên sáng lập; (2) các cán bộ nhân viên thuộc biên chế của Trường; (3) các cộng tác viên có nhiệt tâm với sự nghiệp của Trường (giáo viên thỉnh giảng, báo cáo viên, bảo trợ và vận động bảo trợ, tạo mối liên hệ giữa Trường với các doanh nghiệp …). Hầu hết những người này đều có trình độ đại học và trên đại học. Trong số các cộng tác viên, có nhiều người là lực lượng dự bị của Trường, sẵn sàng chuyển về Trường công tác khi có điều kiện, hoặc sẵn sàng thế chân cha anh để tiếp nối sự nghiệp của Trường.
Trường ta không phải là Quỹ tiết kiệm của ngân hàng. Người góp vốn không được quyền rút vốn bất kỳ lúc nào muốn. Vốn góp phải được coi là vốn đầu tư dài hạn và phải chịu rủi ro như bất cứ vốn đầu tư nào khác. Điều lệ của Trường quy định chỉ được rút vốn nếu gặp một trong 3 trường hợp: (1) gặp khó khăn lớn về tài chính; (2) người góp vốn chết mà không trao quyền thừa kế cho ai; (3) được Hội đồng quản trị yêu cầu rút ra khỏi danh sách cổ đông.
Vốn góp không được chia lợi nhuận mà chỉ được hưởng lãi suất cố định giống như tiền gửi vào Quỹ tiết kiệm của ngân hàng. Để đền bù những thiệt thòi so với tiền gửi vào Quỹ tiết kiệm, Điều lệ của Trường quy định vốn góp được hưởng lãi suất bằng 1 đến 2 lần lãi suất tiết kiệm, tùy theo tình hình tài chính của Trường.
Là cổ đông thì phải có nghĩa vụ với tổ chức mà mình tham gia. Nghĩa vụ lớn nhất là hết lòng góp sức trong phạm vi khả năng của mình vào việc xây dựng và phát triển Trường; xây dựng quan hệ hợp tác trung thực giữa các cổ đông với nhau để hình thành một tập thể bền vững, vì sự nghiệp cao cả của Trường và vì lợi ích chính đáng của mỗi người; bài trừ mọi hành vi tác hại đến lợi ích và thanh danh của Trường hoặc lợi dụng danh nghĩa của Trường để mưu lợi riêng, bài trừ mọi hành vi chia rẽ nội bộ, bài trừ tệ tham ô, tham nhũng. Ai làm trái nghĩa vụ thì Hội đồng quản trị có quyền yêu cầu rút ra khỏi danh sách cổ đông (cũng có nghĩa là khai trừ).
Nghĩa vụ phải đi đôi với quyền và quyền lợi. Quyền lớn nhất là quyền dân chủ: cổ đông có quyền bàn bạc, góp ý kiến về mọi công việc của Trường khi họp Đại hội cổ đông hoặc góp ý kiến trực tiếp với Hội đồng quản trị, Ban Giám hiệu và Ban Kiểm soát; có quyền biểu quyết trong Đại hội cổ đông trên nguyên tắc mỗi người một phiếu, không phân biệt số tiền cổ phần nhiều hay ít; có quyền bầu cử và ứng cử vào Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát. Quyền lợi lớn nhất là được ưu tiên xếp việc làm cho bản thân hoặc cho thân nhân khi Trường có nhu cầu và với điều kiện đáp ứng được nhiệm vụ.
- Đại hội cổ đônglà đại hội của những người chủ sở hữu tập thể của Trường, là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Trường. Đại hội bầu ra Hội đồng quản trị là cơ quan thay mặt mình, có thẩm quyền cao nhất giữa hai kỳ Đại hội. Đại hội bầu ra Ban Kiểm soát là cơ quan thay mặt mình làm chức năng giám sát, kiểm tra. Khi cần, Đại hội có thể bầu trực tiếp Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Hiệu trưởng.
Đại hội họp thường kỳ mỗi năm một lần để thảo luận, phê chuẩn các báo cáo và đề án của Hội đồng quản trị và của Ban Kiểm soát.
Đại hội quyết định theo đa số tuyệt đối. Các nghị quyết của Đại hội chỉ có hiệu lực khi có ít nhất 2/3 tổng số cổ đông có mặt, và khi đạt được sự nhất trí của 2/3 số cổ đông có mặt.
- Hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông bầu ra là cơ quan có thẩm quyền cao nhất giữa hai kỳ Đại hội. Hội đồng quản trị cử ra (hoặc miễn nhiệm) Hiệu trưởng, đề nghị Bộ Giáo dục – Đào tạo công nhận; phê chuẩn đề nghị của Hiệu trưởng về việc cử (hoặc miễn nhiệm) các Phó Hiệu trưởng.
Hội đồng quản trị quyết định chiến lược hoạt động và phát triển của Trường; phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách hàng năm; quyết định việc huy động vốn, vay vốn, sử dụng vốn, phân phối thu nhập và các biện pháp khác về tài chính; triệu tập Đại hội cổ đông thường kỳ và bất thường; trình báo cáo và đề án về các hoạt động của Trường để Đại hội cổ đông thảo luận, phê chuẩn.
Hội đồng quản trị quyết định theo đa số tuyệt đối. Các quyết định của Hội đồng chỉ có hiệu lực khi có ít nhất 2/3 tổng số thành viên có mặt, và khi đạt được sự nhất trí của 2/3 số thành viên có mặt. Hội đồng làm việc trên cơ sở các báo cáo và đề án do Ban Giám hiệu trình.
- Ban Giám hiệu, gồm Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng, là cơ quan thường trực của Hội đồng quản trị, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị điều hành các hoạt động của Trường. Ban Giám hiệu có các nhiệm vụ, quyền hạn: tổ chức, lãnh đạo và quản lý mọi mặt hoạt động của Trường; xây dựng và quản lý bộ máy của Trường; quản lý ngân sách và tài sản của Trường; cấp các chứng chỉ học vấn, các văn bằng tốt nghiệp; đại diện cho Trường trong các quan hệ trong nước và quốc tế; báo cáo, thỉnh thị Bộ Giáo dục – Đào tạo về các hoạt động đào tạo của Trường.
Hiệu trưởng là đại diện pháp nhân của Trường.
Ban Giám hiệu có các tổ chức trực thuộc sau:
- Hội đồng khoa học
- Các tổ chức đào tạo
- Các tổ chức nghiên cứu khoa học
- Các tổ chức tư vấn
- Các tổ chức dịch vụ
- Các phòng ban chức năng.
Việc thành lập và giải thể các tổ chức trực thuộc do Ban Giám hiệu quyết định căn cứ vào nhu cầu công tác và trên nguyên tắc bảo đảm hiệu suất, hiệu quả cao của bộ máy hoạt động.
Ban Giám hiệu hoạt động theo nguyên tắc tập thể trong khi vẫn dành quyền quyết định cuối cùng cho Hiệu trưởng.
Ban Kiểm soát. Cơ cấu tổ chức của hợp tác xã Trường ta, ngoài Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị và cơ quan thường trực của Hội đồng quản trị là Ban Giám hiệu, còn có Ban Kiểm soát, được lập ra từ Đại hội cổ đông lần thứ hai (1999). Ban Kiểm soát do Đại hội cổ đông trực tiếp bầu ra.
Đã có một hệ thống tổ chức được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó đã bao hàm sự kiểm soát của Đại hội cổ đông đối với Hội đồng quản trị, của Hội đồng quản trị đối với Ban Giám hiệu, thì cần gì phải lập Ban Kiểm soát nữa?
Thật vậy, một hệ thống tổ chức được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ, nếu hoạt động theo đúng thể chế thì quả là không cần đến Ban Kiểm soát nữa.
Theo nguyên tắc tập trung dân chủ thì quyền lực được tổ chức theo hình kim tự tháp: càng lên đỉnh của kim tự tháp thì quyền lực càng tập trung vào tay một số ít người, cuối cùng vào tay một người. Mặc dù quyền lực thuộc về số đông nằm ở đáy kim tự tháp, nhưng số đông thì lại không thể trực tiếp thực thi quyền lực của mình, vì vậy mà phải ủy quyền cho một số ít người. Chính chế độ ủy quyền đã trao quyền lực vào tay một số ít người, cuối cùng là một người. Số đông luôn luôn có quyền kiểm soát những người được ủy quyền bằng cách tín nhiệm hoặc không tín nhiệm họ, bằng cách phê chuẩn hoặc không phê chuẩn những việc làm của họ.
Tuy nhiên, một khi đã nắm được quyền lực thì những người được ủy quyền lại có thể lợi dụng quyền lực để chuyên quyền độc đoán, vi phạm thể chế dân chủ, thậm chí vô hiệu hóa quyền lực của số đông. Lịch sử không hiếm những trường hợp như vậy. Chính là để đề phòng những trường hợp như vậy có thể xảy ra mà Đại hội cổ đông cần phải ủy nhiệm một số người làm tai mắt cho mình, đó là Ban Kiểm soát. Đại hội cổ đông thì mỗi năm mới họp một lần, còn Ban Kiểm soát thì làm việc hàng ngày, thấy xuất hiện tình hình không bình thường thì tiến hành kiểm tra ngay.
Nếu xuất hiện những vụ việc vi phạm nghiêm trọng mà Hội đồng quản trị không xử lý, hoặc không có khả năng xử lý, hoặc do chính Hội đồng quản trị gây ra thì Ban Kiểm soát có quyền yêu cầu triệu tập hội nghị bất thường của Đại hội cổ đông để báo cáo và kiến nghị xử lý.
Ban Giám hiệu là cơ quan quản lý, điều hành, nó có chức năng kiểm tra của nó. Ban Kiểm soát không làm thay công việc thuộc chức năng kiểm tra của cơ quan điều hành. Chức năng của nó là tập trung vào những mục tiêu có liên quan đến sự tồn vong của Trường:
Ngăn ngừa những hành động vi phạm pháp luật,
Ngăn ngừa những hành động vi phạm nguyên tắc tổ chức như chuyên quyền độc đoán, vô trách nhiệm, bè phái, chia rẽ nội bộ.
Ngăn ngừa những hành động vi phạm nguyên tắc tài chính như tham ô, tham nhũng, lãng phí.
Nếu những hành động vi phạm loại này không xảy ra thì Ban Kiểm soát làm gì? Đương nhiên nó sẽ không có việc gì để làm, nói đúng hơn là nó vẫn theo dõi, giám sát, mà không cần kiểm tra, không cần can thiệp. Còn gì đáng mong muốn hơn khi mọi việc diễn ra tốt đẹp, không có những vụ việc vi phạm nghiêm trọng mà Ban Kiểm soát cần quan tâm?
- Nhìn vào tổ chức của Trường ta, thấy rõ hai cơ cấu tách biệt nhau: cơ cấu của một trường đại học và cơ cấu của một hợp tác xã.
Là một trường đại học, Trường ta có bộ máy giống như bất cứ trường đại học nào khác. Bộ máy ấy gồm có Hiệu trưởng, Hiệu phó, các phòng ban chức năng, Hội đồng khoa học, các khoa và tổ bộ môn, các tổ chức nghiên cứu khoa học, tư vấn và dịch vụ. Bộ máy của Trường và hoạt động của nó nằm trong hệ thống giáo dục của quốc gia, đặt dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục – Đào tạo. Bộ máy của Trường hoạt động theo chế độ thủ trưởng mà Hiệu trưởng là thủ trưởng cao nhất. Bàn bạc dân chủ tập thể là một chế độ làm việc được khuyến khích, nhưng cốt lõi vẫn là chế độ thủ trưởng. Đó là đặc điểm của bất cứ bộ máy quản lý điều hành nào. Mọi quyết định phải tuân thủ thể chế và thủ tục Nhà nước, do Hiệu trưởng ban hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Quyết định của Hiệu trưởng có giá trị pháp lý. Không thể nhân danh Hội đồng quản trị hay Đại hội cổ đông để ban hành quyết định cho các khoa, các phòng, công nhân viên chức và sinh viên. Không thể nhân danh Hội đồng quản trị và Đại hội cổ đông để cấp các chứng chỉ học vấn và văn bằng tốt nghiệp. Điều này làm cho bộ máy của trường đại học tách biệt với bộ máy của hợp tác xã.
Nhưng, chính các cổ đông lại là những người góp sức góp vốn để dựng lên trường, họ tập hợp thành một tổ chức hợp tác của những người lao động để chăm lo cho sự thành đạt và phát triển của Trường. Đã là một tổ chức hợp tác của nhiều người thì phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ mà nền tảng là Đại hội cổ đông, từ Đại hội cổ đông mà bầu ra Hội đồng quản trị, từ Hội đồng quản trị mà cử ra các chức danh Hiệu trưởng, Hiệu phó để quản lý bộ máy của Trường và điều hành mọi hoạt động của Trường.
Như vậy, nguyên tắc tổ chức bộ máy của hợp tác xã là nguyên tắc dân chủ – hay tập trung dân chủ, khác với nguyên tắc của bộ máy điều hành là chế độ thủ trưởng. Hợp tác xã không trực tiếp điều hành bộ máy của Trường mà phải thông qua Hiệu trưởng do hợp tác xã cử ra. Hợp tác xã không trực tiếp ban hành các quyết định cho công nhân viên chức và sinh viên thi hành, mà chỉ quyết định những chủ trương lớn để Hiệu trưởng thi hành bằng cách cụ thể hóa thành các quyết định của Hiệu trưởng.
Như vậy, cơ cấu của hợp tác xã được gắn với cơ cấu của trường đại học bằng một mắt xích, đó là Hiệu trưởng.
- Gắn hai cơ cấu với nhau chỉ bằng một mắt xích thì rõ ràng là chưa đủ chặt chẽ, thậm chí còn nhiều sơ hở. Đại hội cổ đông lần thứ hai (1999) đã bổ sung vào Điều lệ của Trường hai quy định mới:
Đặt Ban Giám hiệu thành cơ quan thường trực của Hội đồng quản trị
Hợp nhất hai chức danh – Chủ tịch Hội đồng quản trị và Hiệu trưởng – thành một chức danh.
Từ năm 1996 đến năm 1999, chúng ta vẫn tổ chức hai cơ quan quyền lực tách biệt nhau là Hội đồng quản trị và Ban Giám hiệu, và gắn hai cơ quan với nhau bằng một mắt xích là Hiệu trưởng. Trong thực tế thì các thành viên Ban Giám hiệu đều là thành viên Hội đồng quản trị, do Hội đồng quản trị cử ra, có trách nhiệm chuẩn bị các quyết định của Hội đồng quản trị và có trách nhiệm thi hành các quyết định của Hội đồng quản trị; như vậy thì trong thực tế đã thành cơ quan thường trực của Hội đồng quản trị, thay mặt Hội đồng quản trị để điều hành bộ máy của Trường và các hoạt động của Trường. Quyết định bổ sung năm 1999 chỉ là xác nhận một thực tế.
Tuy nhiên, không chỉ là xác nhận một thực tế. Ý nghĩa của quyết định này quan trọng hơn nhiều: từ chỗ lập hai cơ quan lãnh đạo, nay chỉ lập một. Trước đây, Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo của hợp tác xã, còn Ban Giám hiệu là cơ quan quản lý của trường đại học, mỗi cơ quan đều có quyền lớn, khó có thể nói quyền nào lớn hơn quyền nào. Nếu hai cơ quan kết hợp chặt chẽ với nhau theo sự phân công do Điều lệ quy định thì mọi việc có thể ổn. Nhưng nếu hai cơ quan có sự tranh chấp với nhau về quyền (suy cho cùng chỉ là tranh chấp vì lý do cá nhân và quyền thường gắn liền với lợi) thì thật là khó xử lý. Tình hình này đã từng xảy ra ở các công ty quốc doanh, kể từ khi thành lập Hội đồng quản trị bên cạnh Giám đốc. Cách tổ chức này là do chúng ta đã bệ nguyên xi cách tổ chức của các công ty tư bản vào các công ty quốc doanh mà không phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa hai loại hình công ty.
Trong các công ty tư bản thì Hội đồng quản trị là đại diện của các chủ sở hữu, còn Giám đốc chỉ là người điều hành theo ủy quyền, hoặc là người được thuê để điều hành. Giám đốc nhất thiết phải tuân theo các quyết định của Hội đồng quản trị. Như vậy, tuy có hai cơ quan quyền lực nhưng thực chất chỉ là một.
Trong khi đó thì ở các công ty quốc doanh, Hội đồng quản trị không thể tự nhận mình là đại diện duy nhất của chủ sở hữu. Giám đốc cũng có tư cách ấy – Giám đốc cũng do chủ sở hữu là Nhà nước bổ nhiệm. Giám đốc còn là đại diện pháp nhân của công ty, điều này làm cho Giám đốc có trách nhiệm cao hơn Hội đồng quản trị. Như vậy là có hai cơ quan quyền lực song song tồn tại và trùng chéo nhau trên rất nhiều lĩnh vực cụ thể. Trong lịch sử nước Pháp đã từng xảy ra tình hình này và được gọi là dualité du pouvoir (tính hai mặt của quyền lực). Tổ chức như thế thì trách nào giữa Hội đồng quản trị và Giám đốc chẳng luôn luôn xảy ra lủng củng, tranh chấp. Nếu xảy ra tranh chấp thì ưu thế lại hoàn toàn thuộc về Giám đốc, vì Giám đốc là người cầm đầu bộ máy của công ty, là người điều hành mọi hoạt động của công ty, là chủ tài khoản của công ty, và là đại diện pháp nhân của công ty. Trong khi đó thì Hội đồng quản trị lại có vẻ như quyền thế to hơn Giám đốc, vì Giám đốc chỉ là một thành viên trong Hội đồng quản trị. Mâu thuẫn khó giải quyết là ở chỗ đó.
Trường ta cũng không khác gì một công ty quốc doanh, chỉ khác ở chế độ sở hữu – là sở hữu hợp tác xã. Nếu duy trì hai cơ quan quyền lực thì không thể bảo đảm rằng trong tương lai sẽ không xảy ra mâu thuẫn, vì nguồn gốc của mâu thuẫn đã nằm sẵn trong cơ cấu tổ chức mà chúng ta thiết kế ra.
Đưa hẳn Ban Giám hiệu vào Hội đồng quản trị, đặt Ban Giám hiệu thành cơ quan thường trực của Hội đồng quản trị thì không còn hai cơ quan quyền lực nữa, do đó không còn khả năng xảy ra tranh chấp giữa hai cơ quan quyền lực nữa. Từ nay sẽ chỉ có một cơ quan quyền lực thôi, đó là Hội đồng quản trị. Cơ quan quyền lực này không chỉ trùm lên hợp tác xã mà trùm lên cả trường đại học. Bộ máy của hợp tác xã cũng như bộ máy của trường đại học đều đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị thông qua cơ quan thường trực của mình để nắm quyền hành chính của trường đại học, điều hành trường đại học.
Còn Ban Giám hiệu thì không chỉ là cơ quan đứng đầu bộ máy của trường đại học, nó còn là bộ phận thường trực của cơ quan đứng đầu bộ máy của hợp tác xã. Vai trò của nó trùm lên cả trường đại học lẫn hợp tác xã.
Sự gắn kết bộ máy của hợp tác xã với bộ máy của trường đại học từ nay không chỉ thông qua một mắt xích là Hiệu trưởng, mà thông qua cơ quan quyền lực của cả hợp tác xã lẫn trường đại học – Hội đồng quản trị.
Trong nội bộ Hội đồng quản trị sẽ chỉ còn sự phân công quyền hạn giữa tập thể lớn (Hội đồng quản trị) và tập thể thu hẹp hơn (Ban Giám hiệu), giống như sự phân công quyền hạn giữa toàn ban Tỉnh ủy với ban Thường vụ Tỉnh ủy. Nếu có xảy ra tranh chấp thì không phải là tranh chấp giữa hai cơ quan đứng đầu hai bộ máy, mà chỉ là sự tranh chấp giữa các thành viên của cùng một cơ quan, cơ quan này có đủ thẩm quyền giải quyết mọi tranh chấp bằng cơ chế quyết định của mình.
- Đã là một cơ quan quyền lực duy nhất thì không thể có hai cái đầu – Chủ tịch Hội đồng quản trị và Hiệu trưởng. Sáp nhập hai chức danh này thành một chức danh là tất yếu. Chức danh này được gọi là gì? Theo tiếng Việt thì không thể gọi khác hơn là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Hiệu trưởng. Cách gọi này có nhược điểm là làm cho người ta dễ hiểu lầm rằng vẫn có hai chức danh, chỉ khác là do một người nắm giữ. Đúng ra thì phải hiểu đó là một chức danh, giống như chức danh PDG (Président Directeur Général – Chủ tịch – Tổng giám đốc) của các công ty nước ngoài.
Trước đây chúng ta tách ra hai chức danh và giao cho hai người nắm giữ. Điều này cũng ẩn tàng nguy cơ tranh chấp giữa hai chức danh. Hội đồng quản trị có quyền cử ra và miễn nhiệm Ban Giám hiệu, như vậy thì quyền thế của Hội đồng quản trị hẳn phải to hơn quyền thế của Ban Giám hiệu. Theo lô-gích ấy thì quyền thế của người đứng đầu Hội đồng quản trị cũng phải to hơn quyền thế của người đứng đầu Ban Giám hiệu. Tuy nhiên, sự thật thì lại không phải như vậy. Quyền lực của Hội đồng quản trị là quyền lực của tập thể, còn người đứng đầu tập thể đó, ngoài việc triệu tập hợp và chủ tọa cuộc họp, có được giao việc gì khác đâu? Ngay nội dung cuộc họp và các dự thảo nghị quyết của cuộc họp cũng không giao Chủ tịch Hội đồng quản trị chuẩn bị, mà giao Ban Giám hiệu chuẩn bị.
Trong khi đó thì Hiệu trưởng phải chịu trách nhiệm quản lý cả bộ máy của trường, điều hành mọi hoạt động của trường, quản lý tài chính và tài sản của trường, đại diện cho trường trong các quan hệ trong nước và quốc tế, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của trường, chịu trách nhiệm soạn thảo các báo cáo và dự án trình Hội đồng quản trị, và sau khi được Hội đồng quản trị thông qua thì nhân danh Hội đồng quản trị mà trình ra Đại hội cổ đông.
Đặt ra một chức danh không có thực việc và thực quyền đối trọng với một trách nhiệm lớn, thì sớm muộn cũng dẫn đến tranh giành quyền lực, phá nát sự nghiệp của trường. Một số trường đại học dân lập ở nước ta đã thấy được hậu quả ấy, chẳng lẽ không nên lấy đó làm răn?
- Trao cho một người những trách nhiệm lớn như thế thì có sợ xảy ra nguy cơ một cá nhân khuynh loát cả tổ chức hay không? Sợ như thế thì Bí thư Tỉnh ủy sao? Chức danh này cũng đứng đầu cả ban Tỉnh ủy, cả ban Thường vụ Tỉnh ủy, cả Thường trực Tỉnh ủy.
Vả chăng, chỉ riêng chức danh Hiệu trưởng đã được Điều lệ của Trường và pháp luật Nhà nước trao cho rất nhiều quyền rồi. Nay có giao thêm “quyền” triệu tập họp và chủ tọa cuộc họp của Hội đồng quản trị thì có tăng thêm là bao?
Đặc điểm mà cũng là chỗ yếu của mọi nền dân chủ là ở chỗ: quyền lực là của tập thể thật đấy, nhưng vẫn phải ủy thác cho một cá nhân (Tổng thống, Tổng bí thư), nếu không thì công việc rối mù, thậm chí loạn. Vấn đề chỉ là ở chỗ chọn mặt gửi vàng sao cho đúng. Nếu chọn sai, chẳng hạn như chọn nhầm một anh chàng Goóc-ba-chốp “lá mặt lá trái” nào đó, thì mọi thể chế dân chủ đành vô hiệu, những người chọn mặt gửi vàng phải hứng chịu mọi hậu quả. Với hiểu biết của giới trí thức Trường ta, và trong khuôn viên nhỏ hẹp của Trường ta thì điều lo ngại này dẫu sao cũng ít có khả năng xảy ra. Mà nếu có xảy ra thì hậu quả cũng không thể kéo dài. Chúng ta có tập thể Hội đồng quản trị, chính tập thể này có quyền cử ra thì cũng có quyền miễn nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Hiệu trưởng. Chúng ta có Ban Kiểm soát là tai mắt của Đại hội cổ đông. Chúng ta có Đại hội cổ đông họp thường kỳ mỗi năm một lần, nếu cần thì họp bất thường. Trong trường hợp một số thành viên của các tập thể nêu trên bênh che cho người cầm đầu chuyên quyền độc đoán thì Đại hội cổ đông có quyền bầu trực tiếp Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Hiệu trưởng. Đó là những gì mà thể chế dân chủ trao vào tay chúng ta để sửa chữa sai lầm trong việc chọn mặt gửi vàng nếu xảy ra. Các điều khoản này đều đã được ghi vào Điều lệ của Trường.
Lý tưởng và Lợi ích
- Khi các sáng lập viên đầu tiên đưa ra ý tưởng thành lập trường dân lập, họ xem trường dân lập là một phương thức để tiếp tục thực hiện lý tưởng cách mạng. Được nghỉ hưu sau 40-50 năm hoạt động cách mạng mà muốn tiếp tục đóng góp cho đất nước bằng kiến thức và kinh nghiệm của mình thì còn phương thức nào hơn là mở trường dân lập – một phương thức đã thành truyền thống dân tộc?
Tuy nhiên, trong điều kiện đất nước đã sạch bóng quân xâm lược, chuyển sang hòa bình xây dựng, thì Tổ quốc không đặt ra yêu cầu mỗi người con phải hy sinh thân mình vì nghĩa lớn. Làm được việc gì vừa lợi nhà vừa ích nước thì đều có ý nghĩa phục vụ Tổ quốc. Cách đặt vấn đề của thời đại mới là như vậy.
Mở trường dân lập để đào tạo các nhà kinh tế, góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, thì đương nhiên là ích nước rồi.
Còn lợi nhà? Chúng ta đã có kinh nghiệm của nhiều thập kỷ chỉ đề cao tinh thần cách mạng, đề cao động lực tinh thần, mà coi nhẹ lợi ích vật chất của người lao động, thậm chí coi việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế là khuynh hướng xét lại. Những kinh nghiệm ấy đã phải trả giá đắt. Chỉ nêu cao lý tưởng cách mạng hay ý nghĩa cao cả của việc đào tạo nhân tài cho đất nước, mà không tính đến lợi ích của mỗi người tham gia, thì làm sao thu hút được nhiều người tham gia trường dân lập, làm sao duy trì và phát triển được trường dân lập trường tồn với lịch sử? Vấn đề lợi ích phải được giải quyết thỏa đáng thì lý tưởng cao đẹp mới thành hiện thực. Lý tưởng phải gắn liền với lợi ích. Lý tưởng phải bao hàm lợi ích.
- Những người tham gia trường dân lập mong muốn có được những lợi ích gì?
Lợi ích đầu tiên là việc làm. Mọi người tham gia đều có nhu cầu việc làm. Có việc làm tức là có thu nhập. Ngay cả những người có lương hưu cũng có nhu cầu việc làm để có thêm thu nhập. Việc làm đối với họ còn có ý nghĩa một nhu cầu về tinh thần: được tiếp tục hoạt động trong một tập thể đồng nghiệp, được tự khẳng định mình với tư cách là một người còn có ích cho xã hội.
Nhưng trường dân lập thì không thể biến thành một trung tâm tiếp nhận người thất nghiệp vì mục đích xã hội – nhân đạo. Nó phải bảo đảm cho mình một đội ngũ lao động thành thạo tay nghề và có tinh thần trách nhiệm cao, trong đó có những chuyên gia trình độ cao và có chuyên môn phù hợp. Bởi lẽ: nếu không có một năng suất lao động cao thì trường dân lập không thể tồn tại và phát triển được. Chỉ nhìn vào kinh phí đào tạo thì đủ rõ. Kinh phí đào tạo không chỉ bao gồm học phí, mà bao gồm cả các khoản chi từ ngân sách Nhà nước tính trên đầu sinh viên. Với cách tính ấy thì kinh phí đào tạo một sinh viên trường công lập cao gấp đôi kinh phí trường dân lập. Để đào tạo một sinh viên trường công lập, xã hội phải chi phí gấp đôi so với chi phí bỏ ra để đào tạo một sinh viên trường dân lập. Với chi phí chỉ bằng 1/2 trường công lập, làm thế nào trường dân lập có thể bảo đảm được chất lượng đào tạo ít nhất cũng bằng trường công lập? Giải pháp chủ yếu là đạt năng suất lao động cao trên mọi khâu của dịch vụ đào tạo. Ngoài ra là tận dụng đến mức cao nhất công suất của cơ sở vật chất kỹ thuật.
Đáp ứng nhu cầu việc làm cho các thành viên tham gia và bảo đảm cho trường có được năng suất lao động cao là hai việc không phải lúc nào cũng hòa hợp được. Gặp trường hợp mâu thuẫn thì phải dứt khoát lấy lợi ích của Trường làm trọng. Trường mà “sập tiệm” vì biên chế cồng kềnh thì cũng chẳng còn việc làm cho ai. Vì vậy, Điều lệ của Trường quy định cổ đông được ưu tiên xếp việc làm cho bản thân, và cũng có thể cho thân nhân, nhưng chỉ khi trường có nhu cầu và với điều kiện người được xếp việc phải đáp ứng được nhiệm vụ. Không bao giờ được nhận người mà thiếu việc để giao, hoặc nhận người không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Trường dân lập cũng không thể hứa hẹn việc làm suốt đời cho cổ đông và công nhân viên chức. Sức ép của yêu cầu tinh giản bộ máy không cho phép hứa hẹn như vậy. Về điều này, chúng ta đã có tấm gương tầy liếp của biên chế Nhà nước. Ai vào được biên chế Nhà nước thì có quyền ở lại đó suốt đời, dù đủ việc hay thiếu việc, dù làm tốt hay làm tồi. Biên chế Nhà nước giống như một cơ thể chỉ hấp thụ vào mà không thải ra, lâu ngày sinh ứ trệ. Đã từ nhiều năm nay, số người dư thừa trong biên chế Nhà nước đã lên tới 1/3, có nơi lên tới 1/2. Quá nhiều người chỉ lĩnh đủ lương mà không làm đẫy việc. Vì việc ít, người nhiều, năng suất lao động thấp, cho nên lương thấp. Một cái bánh có giới hạn mà phải chia cho quá nhiều người, cả người làm lẫn người dựa dẫm, thì khẩu phần bình quân ắt phải thấp. Chỉ bộ máy có nguồn lực lớn như Nhà nước mới chịu đựng nổi, còn trường dân lập mà rơi vào tình trạng đó thì “sập tiệm” là điều chắc chắn.
Ngay các công ty Nhật bản, trong thập kỷ suy thóai kinh tế vừa qua, cũng phải lần lượt dẹp bỏ chính sách bảo đảm việc làm suốt đời cho công nhân viên chức, vốn được xem là một đặc trưng mang truyền thống dân tộc của kiểu quản lý Nhật bản.
Để tránh tiêu cực do chế độ biên chế suốt đời gây ra, Trường ta chủ trương mọi cán bộ nhân viên đều làm việc theo hợp đồng, dài hạn hoặc ngắn hạn. Chỉ những công việc có nhu cầu lao động dài hạn mới tuyển dụng lao động theo hợp đồng dài hạn. Tổng số những người làm việc theo hợp đồng dài hạn hình thành cái gọi là biên chế của Trường. Hợp đồng có thời hạn một năm là hợp đồng dài hạn, dưới một năm là hợp đồng ngắn hạn. Hợp đồng dài hạn được kéo dài một cách đương nhiên, nếu kết thúc thời hạn mà một trong hai bên không yêu cầu thay đổi hợp đồng.
Trường ta, với nguồn tài chính hạn hẹp, phải bảo đảm cho bộ máy luôn luôn tinh, không có người nào lĩnh đủ lương mà không làm đẫy việc, người nào không đáp ứng được nhiệm vụ thì phải chuyển sang việc khác thích hợp hoặc phải thôi việc. Đây là vấn đề tồn vong của cả một tổ chức, đặt vấn đề nhân nghĩa hay không nhân nghĩa ở đây là không đúng chỗ.
Để sử dụng lao động một cách hiệu quả, Trường ta chủ trương áp dụng chế độ làm việc toàn phần thời gian và từng phần thời gian. Việc nào chỉ cần lao động một phần thời gian thì sử dụng lao động làm việc một phần thời gian. Nếu sức khoẻ hay hoàn cảnh cá nhân chỉ cho phép lao động một phần thời gian thì đăng ký làm việc một phần thời gian. Làm việc một phần thời gian thì hưởng lương theo tỷ lệ thời gian tương ứng.
Thù lao theo việc hay thù lao theo kết quả công việc là hình thức thù lao thích hợp nhất với yêu cầu sử dụng lao động có hiệu quả. Việc gì có thể nghiệm thu bằng kết quả, có thể đo lường số lượng và chất lượng lao động qua kết quả công việc thì tận khả năng sử dụng hình thức thù lao này. Giảng dạy một tiết học, biên soạn một tiết giáo trình, hướng dẫn một tiểu luận hay một luận văn tốt nghiệp… đó là loại việc có thể và cần phải áp dụng hình thức thù lao theo việc.
Chỉ trong trường hợp một chức trách phải đảm nhiệm nhiều việc mà không thể tách bạch ra để thù lao theo việc thì mới áp dụng hình thức trả lương theo chức vụ và theo tháng.
- Lương phải quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, nghĩa là phải căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động thực tế cống hiến mà trả lương. Nguyên tắc này được cụ thể hóa như sau:
1- Lương là toàn bộ thù lao trả cho lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động thực tế cống hiến, trong đó đã bao gồm phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp độc hại, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chi phí đi lại, chi phí điện thoại, chi phí ăn trưa v.v… Những người thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế thì phải trích tiền lương của mình để đóng, nhà trường chỉ hỗ trợ về thủ tục. Cán bộ về hưu đã đóng bảo hiểm thì được nhận toàn bộ thù lao mà không phải đóng bảo hiểm nữa.
2- Không xếp lương theo thâm niên công tác. Thâm niên phải thể hiện ở chất lượng lao động, ở trình độ thành thạo trong công việc đang đảm nhiệm.
3- Không chủ trương định kỳ nâng bậc lương. Chỉ nâng lương khi nào đạt chất lượng lao động cao hơn, năng suất lao động cao hơn, cống hiến lớn hơn.
4- Không xếp lương theo học hàm, học vị hoặc chức vụ cũ (giảng viên có quy định riêng cũng theo tinh thần này). Học hàm, học vị và chức vụ cũ phải thể hiện ở chất lượng lao động và hiệu quả của công việc đang đảm nhiệm.
5- Không ấn định một mức lương cứng nhắc cho mỗi chức vụ. Cùng một chức vụ như Phó Hiệu trưởng, Chủ nhiệm Khoa, Phó chủ nhiệm Khoa, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, có thể xếp vào nhiều bậc lương khác nhau, tùy thuộc vào các yếu tố: khối lượng công việc, cường độ lao động, tính chất phức tạp của công việc, trình độ thành thạo của người lao động, mức độ đáp ứng trách nhiệm được giao.
6- Khi trách nhiệm thay đổi, tính chất công việc và khối lượng công việc thay đổi thì lương phải được điều chỉnh tương ứng, có lên có xuống.
7- Hàng tháng, căn cứ vào phiếu lao động, lương được tính tỷ lệ với lao động thực tế cống hiến.
8- Nếu làm việc một phần thời gian thì lương được tính tỷ lệ với thời gian làm việc.
9- Nhận trách nhiệm nào thì được thù lao theo trách nhiệm ấy. Nhận nhiều trách nhiệm thì được hưởng nhiều khoản thù lao tương ứng với các trách nhiệm.
Lương chức vụ chỉ là một trong những hình thức thù lao, được sử dụng để thù lao cho một khối lượng công việc đa dạng mà không thể tách bạch ra được, được gộp chung lại dưới danh nghĩa một chức vụ, một trách nhiệm. Để bảo đảm cho lương chức vụ tương xứng với trách nhiệm được giao, cần cụ thể hóa nội dung công việc của mỗi chức vụ, mỗi trách nhiệm, cụ thể hóa đến mức có thể đo lường được và kiểm soát được số lượng và chất lượng lao động thực tế cống hiến.
- Ngoài lương, cán bộ nhân viên thuộc biên chế của Trường còn được thưởng cuối học kỳ. Tiền thưởng không trích từ “lợi nhuận” (tức số dư tài chính hàng năm), không phụ thuộc vào “lợi nhuận” nhiều hay ít, mà được thiết kế vào quỹ lương ngay từ đầu năm với mức 1 tháng lương cho mỗi học kỳ, và được công bố cho cán bộ nhân viên như một chế độ. Như vậy, tiền thưởng thực chất là một bộ phận của tiền lương, chỉ khác tiền lương ở cách chi trả: phải hoàn thành nhiệm vụ với đầy đủ trách nhiệm trong suốt học kỳ mới được nhận. Người nào phạm khuyết điểm hoặc lao động cống hiến giảm sút vì bất cứ lý do gì thì tùy theo mức độ mà giảm mức thưởng 30%, 50% hay 100%.
- Ai muốn tham gia làm thành viên hợp tác xã Trường ta đều phải góp vốn. Mức góp tối thiểu là 10 triệu đồng. Không hạn định mức góp tối đa. Vốn góp được hưởng lợi ích như thế nào?
Chúng ta không chủ trương chia lãi, vì chia lãi chỉ phù hợp với một tổ chức kinh doanh, không phù hợp với một tổ chức phi lợi nhuận. Tuy nhiên, không thể không có một lợi ích gì. Tiền gửi vào Quỹ tiết kiệm ngân hàng còn được hưởng lãi suất, huống hồ vốn góp vào hợp tác xã? Lãi suất tiền gửi khác với chia lãi. Lãi suất tiền gửi là một tỷ lệ cố định tính trên tổng số tiền gửi. Còn chia lãi là phân phối toàn bộ hay phần lớn lợi nhuận do kinh doanh mà có. Lợi nhuận lớn thì được chia nhiều, lợi nhuận nhỏ thì được chia ít, không kiếm được lợi nhuận thì không có gì mà chia. Trường ta áp dụng phương thức trả lãi tiền gửi của Quỹ tiết kiệm. Song, góp vốn vào hợp tác xã thì thiệt thòi hơn so với gửi tiền vào Quỹ tiết kiệm: không được rút ra bất kỳ lúc nào muốn, lại phải chấp nhận rủi ro nếu hợp tác xã làm ăn thua lỗ. Để đền bù vào những thiệt thòi này, vốn góp phải được hưởng lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm. Cao hơn là bao nhiêu? Nếu nhà trường phải đi vay ngân hàng thì lãi suất tiền vay phải cao hơn lãi suất tiết kiệm. Lấy lãi suất tiền vay làm khởi điểm cho lãi suất vốn góp là điều hợp lý. Tuy nhiên, cao đến bao nhiêu cũng cần có giới hạn. Điều lệ của Trường quy định giới hạn đó bằng 2 lần lãi suất tiết kiệm. Tất cả những điều nói trên về lãi suất chỉ có thể thực hiện được khi tình hình tài chính của Trường tốt đẹp. Trong trường hợp làm ăn kém cỏi, thua lỗ, thì ngay cả vốn cũng mất, nói gì đến lãi suất?
Nói đến khả năng mất vốn là nói về lý thuyết, còn trong thực tế thì khả năng này chưa từng xảy ra. Trường ta, qua 5 năm hoạt động, chẳng những đủ sức trả được lãi suất vốn góp và vốn vay mà còn tích lũy được ít nhiều làm quỹ dự phòng và quỹ phát triển. Các quỹ này được Điều lệ của Trường xác định là quỹ không chia, thuộc sở hữu tập thể của các cổ đông. Theo quan điểm của kinh tế học Mác – Lênin thì đây chính là hình thái tập thể của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa. Nó đang hình thành dưới mái trường dân lập của chúng ta. Còn dưới góc độ của mỗi cổ đông thì đây là sự tăng trưởng của vốn góp. Chỉ cần khuynh hướng tăng trưởng này tiếp diễn thì khả năng mất vốn sẽ không xảy ra.
- Trong năm hoạt động đầu tiên, Trường ta thiếu vốn, phải vay của bạn bè để mua sắm thiết bị. Qua 4 năm hoạt động, đã thu hồi được vốn qua khấu hao thiết bị và tài sản cố định, tổng số lên tới 10 tỷ đồng. Phần lớn số vốn góp này cần được chuyển sang mục tiêu xây dựng ngôi trường mới, gọi là Quỹ xây dựng trường sở (thay cho trường sở hiện đang phải thuê). Tuy nhiên, để xây dựng ngôi trường mới thì số vốn nói trên hoàn toàn chưa đủ. Cần phải có một phương thức mới để huy động vốn, một phương thức có sức động viên mạnh hơn. Phương thức ấy được thể hiện bằng “Điều lệ Quỹ xây dựng trường sở” do Đại hội cổ đông bất thường tháng 4 năm 2000 thông qua. Nội dung như sau:
1- Quỹ xây dựng trường sở (dưới đây gọi tắt là Quỹ) là vốn cho vay dài hạn mà cổ đông trao cho Hội đồng Quản trị của Trường để xây dựng ngôi trường mới tại Phường Vĩnh Tuy theo Quyết định giao đất ngày 9/3/2000 của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội.
2- Người góp vốn vào Qũy phải là cổ đông theo quy định tại Chương II – Điều lệ tổ chức và hoạt động của Trường.
3- Vốn góp vào Quỹ chỉ được rút ra khi Trường đã thanh toán hết nợ (vay để xây dựng ngôi trường ở Vĩnh Tuy) của những người không phải là cổ đông. Việc rút vốn phải tuân theo những điều kiện và trình tự phù hợp với khả năng tài chính của Trường do Đại hội cổ đông quy định vào thời điểm đó.
Những trường hợp rút vốn trước thời hạn trên phải được Hội đồng Quản trị xem xét quyết định, phù hợp với Điều 11.7 của Điều lệ tổ chức và hoạt động của Trường.
4- Vốn góp vào Quỹ được hưởng lãi suất theo 3 giai đoạn như sau:
a- Trong giai đoạn I – Kể từ ngày huy động vốn để xây dựng công trình đến ngày khánh thành công trình: lãi suất bằng “lãi suất cơ bản” + 4% ưu đãi.
b- Trong giai đoạn II – Kể từ ngày khánh thành công trình đến ngày Trường thanh toán hết nợ của những người không phải là cổ đông: lãi suất bằng “lãi suất cơ bản” + 5% ưu đãi.
c- Trong giai đoạn III – Kể từ ngày Trường thanh toán hết nợ của những người không phải là cổ đông đến ngày người góp vốn yêu cầu rút vốn ra khỏi quỹ: lãi suất bằng “lãi suất cơ bản” + 6% ưu đãi.
5- “Lãi suất cơ bản” là lãi suất cho vay bình quân của ngân hàng thương mại “Lãi suất cơ bản” do Hội đồng Quản trị ấn định mỗi năm một lần vào giữa năm, căn cứ vào lãi suất cho vay bình quân của 4 ngân hàng thương mại lớn nhất trong vòng 6 tháng trước đó.
6- Lãi được trả cho người góp vốn mỗi năm 2 lần, vào cuối tháng 6 và cuối tháng 12.
7- Chỉ những khoản vốn góp vào Quỹ trong giai đoạn I (kể từ ngày huy động vốn để xây dựng công trình đến ngày khánh thành công trình) mới được hưởng lãi suất ưu đãi như quy định tại điểm 4. Những khoản vốn góp vào quỹ sau giai đoạn I chỉ được hưởng lãi suất ưu đãi thấp hơn 2% so với quy định tại điểm 4.
8- Vốn góp vào Quỹ được thừa kế, chuyển nhượng giống như vốn cổ phần theo quy định tại Điều 11.5 và Điều 11.6 của Điều lệ tổ chức và hoạt động của Trường.
So với vốn góp vào Trường thì vốn góp vào Quỹ xây dựng trường sở có gì khác?
a- Vốn góp vào Trường là vốn đầu tư dài hạn để lập trường, không hẹn ngày hoàn lại (trừ 3 trường hợp ngoại lệ). Còn vốn góp vào Quỹ xây dựng trường sở là vốn mà cổ đông cho Trường vay dài hạn để xây ngôi trường mới ở Vĩnh Tuy, có hẹn ngày hoàn lại, ngày đó được ghi ở điểm 3: khi nào xây xong ngôi trường mới và nhà trường đã thanh toán hết nợ vay của những người không phải là cổ đông .
Sau khi ban hành Điều lệ này, cổ đông đã đăng ký cho vay trên 10 tỷ đồng, khiến cho việc vay nợ của những người không phải là cổ đông có thể không cần đặt ra nữa. Như vậy thì việc rút vốn cho vay có thể thực hiện ngay sau khi xây xong ngôi trường mới (theo những điều kiện và trình tự quy định tại điểm 3), còn có rút hay không là quyền của cổ đông.
b- Vốn góp vào quỹ được hưởng lãi suất cao hơn. Ngoài “lãi suất cơ bản” là lãi suất cho vay bình quân của ngân hàng thương mại (nên nhớ đây là lãi suất cho vay chứ không phải là lãi suất tiền gửi, nó cao hơn lãi suất tiền gửi) còn được hưởng lãi suất ưu đãi 4% – 5% – 6% tùy giai đoạn.
Tại sao lãi suất ưu đãi lại tăng theo giai đoạn? Vì 2 lý do: (1) Càng về sau, khi ngôi trường mới đã xây xong, nhất là khi nhà trường đã thanh toán hết nợ vay của những người không phải là cổ đông, thì khả năng trả lãi của nhà trường càng cao hơn; (2) Đáng lẽ nhà trường phải trả lãi cao ngay từ đầu, như vậy thì sức huy động vốn mạnh hơn, nhưng trả lãi cao ngay từ đầu thì có khó khăn, đành hẹn trả mức cao khi nào nhà trường không còn nợ ai nữa, ngoài cổ đông. Mức lãi cao đặt vào giai đoạn sau cũng có sức hấp dẫn của nó: nếu cổ đông không rút vốn ra thì có quyền hưởng mức lãi cao lâu dài về sau.
Ngoài việc ban hành Điều lệ Quỹ xây dựng trường sở, Đại hội cổ đông tháng 4 năm 2000 còn quy định: mỗi cổ đông chỉ giữ lại 10 triệu đồng làm vốn góp vào Trường – mức tối thiểu phải góp theo Điều lệ với tư cách cổ đông – phần vượt trội thì chuyển sang Quỹ xây dựng trường sở. Quyết định này dựa trên căn cứ: với mức vốn góp tối thiểu của mỗi cổ đông và với số lượng cổ đông lúc đó đã lên đến gần 300, cộng với quỹ khấu hao tài sản cố định thu hồi hàng năm, nhà trường đã có đủ vốn để bảo đảm nhu cầu về thiết bị dạy và học. Giải phóng phần vượt trội để chuyển sang mục tiêu xây dựng trường sở thì cổ đông có quyền sử dụng vốn của mình linh hoạt hơn (có quyền rút ra khi đến thời hạn quy định), được hưởng lãi suất cao hơn, và vì là vốn cho vay nên không phải chịu rủi ro như vốn đầu tư. Về phía nhà trường thì việc trả lãi vốn vay để xây dựng trường sở cũng có thuận lợi hơn: vay để xây ngôi trường mới thì có thể thu lãi từ kinh doanh bất động sản để trả lãi vốn vay, khác với trả lãi vốn góp của cổ đông phải lấy từ chi phí của nhà trường – tức kinh phí đào tạo – khoản chi phí này về thực chất cũng là lãi tiền vay để mua sắm thiết bị dạy và học.
- Khi nhìn nhận lợi ích như một động lực quan trọng, cần chỉ ra rằng lợi ích không phải là động lực duy nhất. Lý tưởng, hòai bão, sự nghiệp, sự thỏa mãn về tinh thần… cũng đóng vai trò động lực, và trong nhiều trường hợp, động lực tinh thần còn mạnh hơn cả động lực lợi ích.
Giữa lý tưởng và lợi ích, không phải lúc nào cũng kết hợp được hài hòa. Gặp trường hợp mâu thuẫn, lý tưởng phải được coi là nghĩa lớn, còn lợi ích phải đặt ở vị trí phục tùng. Nếu vì lợi ích mà làm hỏng nghĩa lớn thì lợi ích cũng chẳng còn. Khi bắt đầu thành lập Trường, nếu các thành viên sáng lập chỉ quan tâm đòi cho mình quyền và lợi “thỏa đáng” thì chưa hợp tác đã chia rẽ rồi, chưa quy tụ được ai đã tan rã rồi, còn đâu là sự nghiệp ích nước lợi nhà? Trong những năm đầu xây dựng Trường mà đòi lợi ích “thỏa đáng” ngay, không chấp nhận thắt lưng buộc bụng (mức lương thấp, thậm chí một thời gian dài không có lương) thì sự nghiệp làm sao dựng lên được? Ngay cả khi tài chính đã vững vàng, vẫn phải đặt sự nghiệp lên trên hết và trước hết. Phải chăm lo trước hết cho chất lượng đào tạo ngày càng cao, chất lượng của mọi khâu dịch vụ đào tạo ngày càng cao, sự nghiệp của Trường ngày càng vững chắc. Chỉ trên cơ sở ấy mới có được lợi ích và mới nâng cao được lợi ích. Nếu chỉ quan tâm đến lợi ích, xâu xé nhau vì lợi ích, thì sự nghiệp gì rồi cũng tan.
Trường ta là một sự nghiệp tập thể. Lợi ích của mỗi thành viên chỉ có thể tìm thấy ở sự thành công của sự nghiệp tập thể. Vì vậy, mỗi thành viên phải nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, hết lòng chăm lo cho sự nghiệp tập thể. Mỗi thành viên phải lấy lợi ích tập thể của Trường làm trọng, khi lợi ích riêng mâu thuẫn với lợi ích tập thể thì phải sẵn sàng nhường bước cho lợi ích tập thể. Nếu mỗi người chỉ chăm lo cho lợi ích riêng, còn của chung thì coi là “của chùa”, “cha chung không ai khóc”, thì sự nghiệp gì rồi cũng tan.
Xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa lý tưởng và lợi ích, giữa sự nghiệp chung và lợi ích riêng, là nền tảng của mọi tổ chức hợp tác.
Kết luận
Qua những điều trình bày trên đây, có thể tóm tắt như sau:
Mô hình dân lập của Trường ta là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp của những người lao động trí óc, được xây dựng thành một hợp tác xã tự quản, lấy dân chủ và tập trung dân chủ làm thể chế, lấy lý tưởng và lợi ích làm động lực, hoạt động trên lĩnh vực đào tạo với tính cách là một tổ chức phi lợi nhuận, nhằm góp phần vào sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Mô hình này qua 5 năm vận hành (1997- 2001) đã tỏ ra là một tổ chức lành mạnh, đóng vai trò rường cột cho Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội.
Tuy nhiên, 5 năm mới chỉ là bước khởi đầu. Quá trình khảo nghiệm ấy mới chỉ đủ để định hình được những nét chung của mô hình. Sự nghiệp của một trường đại học luôn luôn đặt ra những yêu cầu mới. Mục tiêu “sánh vai cùng các cường quốc 5 châu” còn đang ở phía trước. Nền kinh tế tri thức còn đang ở phía trước. Một mô hình có sức sống phải là một mô hình có khả năng tự hoàn thiện theo yêu cầu của cuộc sống, và bằng cách đó, trường tồn với lịch sử. Chúng ta tin tưởng rằng mô hình của Trường ta sẽ vượt qua được thách thức trong tiến trình phát triển./.