II Làm thế nào để đưa nông nghiệp từ sản xuất nhỏ, lạc hậu lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa?

Thực tiễn của nhân dân Bun-ga-ri cũng như của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác cho thấy, để thực hiện được bước chuyển cực kỳ to lớn đó, phải tiến hành một cuộc cách mạng sâu sắc và toàn diện trong nông nghiệp, cuộc cách mạng này xét trên những nét cơ bản nhất phải được triển khai trên 3 mặt, mà như cách gọi của người Việt Nam chúng ta là cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật và cách mạng văn hóa – tư tưởng.

Trong cách mạng quan hệ sản xuất, nhiệm vụ cơ bản đầu tiên, mà cũng là điều kiện cơ bản trước tiên là phải tạo ra cho được nền sở hữu lớn xã hội chủ nghĩa. Nền sở hữu lớn, tự nó, chưa phải là sản xuất lớn. Nhưng không thể có sản xuất lớn nếu không có nền sở hữu lớn. Sở hữu lớn là cơ sở để xây dựng nền sản xuất lớn, để áp dụng kỹ thuật hiện đại vào sản xuất, để tổ chức lại sản xuất và tổ chức lại lao động xã hội một cách hợp lý, đạt hiệu quả kinh tế cao.

Việc tạo ra nền sở hữu lớn là một quá trình, mà tiến độ của nó tùy thuộc ở hàng loạt điều kiện lịch sử, kinh tế và xã hội. Trong trường hợp nền sở hữu đó lại được xây dựng chủ yếu từ nền sở hữu nhỏ của hàng triệu nông dân, thì việc tính toán đến những điều kiện kể trên là cực kỳ quan trọng. Đảng Cộng sản và chính quyền cách mạng Bun-ga-ri đã tỏ ra hết sức thận trọng trong việc đưa người nông dân lên nền sở hữu lớn và nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Mỗi bước đi đều được tính toán sao cho phù hợp với những điều kiện và nhu cầu của lịch sử, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, với trình độ trang bị kỹ thuật của nông nghiệp, phù hợp với quyền lợi của bản thân người nông dân, với trình độ giác ngộ và trình độ quản lý của họ. Thận trọng nhưng không do dự, chậm chạp, không bỏ mặc những hình thức quan hệ sản xuất trong nông nghiệp dẫm chân tại chỗ, biến thành trở ngại cho sự phát triển của sản xuất, mà luôn luôn chủ động mở đường cho sản xuất phát triển bằng những hình thức mới, thích hợp hơn.

Người nông dân Bun-ga-ri đã có dịp làm quen bước đầu với lối làm ăn tập thể ngay từ trước ngày giải phóng. Khi chính quyền đã về tay nhân dân, công cuộc hợp tác hóa được thực hiện khẩn trương, liên tục, nhưng đi dần từng bước từ thấp lên cao. Như vậy, vẫn bảo đảm tốc độ tiến lên nhanh, nhưng người nông dân không cảm thấy bị thúc ép, bị bỡ ngỡ và do đó, tránh được sự rối loạn trong sản xuất. Trong thời gian đầu, phong trào hợp tác hóa phát triển rất mạnh, dưới hình thức các hợp tác xã tiêu thụ là hình thức đơn giản nhất, dễ làm quen nhất đối với người nông dân. Rồi trong lòng các hợp tác xã đó, hình thành các tổ chức sản xuất tập thể. Chỉ sau khi người nông dân đã quen dần với lối sản xuất tập thể và thấy rõ những lợi ích của lối sản xuất đó, thì các tổ chức sản xuất tập thể trong lòng các hợp tác xã tiêu thụ mới được “chiết” ra, để lập thành những hợp tác xã sản xuất độc lập. Nhờ chuẩn bị chu đáo như thế, các hợp tác xã sản xuất đã tránh được những bỡ ngỡ, những bước đi chập chững ban đầu và sớm đi vào ổn định. Quy mô của hợp tác xã được mở rộng dần, đạt mức bình quân 800 héc ta. Sau hơn 10 năm củng cố và phát triển, đến năm 1958-1959 các hợp tác xã được sáp nhập lại với nhau thành những xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn, diện tích bình quân tới 4 nghìn héc ta. Bước phát triển này cho phép nông nghiệp tiếp nhận hàng loạt máy kéo và máy móc nông nghiệp, và trên cơ sở đó tổ chức lại sản xuất theo hướng tập trung hóa và chuyên môn hóa cao hơn. Khi quy mô hợp tác xã được mở rộng tới 4.000 héc ta cũng chính là lúc mà công nghiệp đã đủ sức cung cấp cho nông nghiệp các vật tư, thiết bị cần thiết nhiều gấp 2-3 lần lúc mới xây dựng hợp tác xã. Năng suất của lao động nông nghiệp, nhờ đó đã tăng lên gấp đôi. Khả năng kinh tế-kỹ thuật của các hợp tác xã và những nhu cầu nhiều mặt của nó đã đặt ra vấn đề mở rộng quy mô của sản xuất như một tất yếu. Nếu không có những điều kiện này, mà những điều kiện này là sự chuẩn bị quan trọng nhất, thì bước tiến vọt đó đã không thể có được, hoặc nếu có diễn ra thì cũng không đem lại lợi ích gì hơn cái quy mô cũ.

Nếu quy mô 4.000 héc ta tỏ ra là hình thức thích hợp để đẩy mạnh cơ giới hóa, tập trung hóa và chuyên môn hóa sản xuất, thì 10 năm sau đó, nó lại tỏ ra là một hình thức có nhiều hạn chế khi đứng trước những vấn đề mới do đời sống đặt ra. Hình thức APK đã được sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và công nghiệp hóa nông nghiệp ở trình độ cao hơn.

Trong việc đưa nông dân lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ở Bun-ga-ri, ngoài hình thức hợp tác xã là chủ yếu, người ta còn thu hút một bộ phận đáng kể nông dân vào thẳng các nông trường quốc doanh. Khu vực này chiếm tới gần 1 triệu héc ta đất canh tác. Phần lớn đó là những nông dân ở vùng đồi núi, đất xấu. Nếu để nông dân ở các vùng này đi lên chủ nghĩa xã hội theo hình thức thông thường là các hợp tác xã, thì chắc chắn rất lâu mới sửa đổi được tình trạng bất công do tự nhiên gây ra. Những khó khăn của các địa phương này tất nhiên sẽ hạn chế nhịp độ phát triển chung của nông nghiệp. Nhà nước đứng ra tổ chức sản xuất. Nhà nước đầu tư vốn, nông dân tự nguyện góp ruộng đất của họ vào nông trường quốc doanh. Tất cả những điều đó có nghĩa là cả nước cùng ghé vai gánh vác những khó khăn về sản xuất và về đời sống cho những địa phương này, vực nó lên mau chóng tiến kịp các địa phương khác.

Khi đưa thẳng nông dân vào các nông trường quốc doanh, người ta phải tính đến và giải quyết cả một loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội: tận dụng và cải thiện những đất xấu nhất để bảo đảm sản xuất đủ nông phẩm cho nền kinh tế quốc dân, thi hành một chính sách giá cả sao cho người sản xuất trong những điều kiện tự nhiên bất lợi nhất vẫn có thể tái sản xuất mở rộng được, bảo đảm một mức bù lỗ nhất định về phía Nhà nước trong những năm đầu để thu lại những kết quả về nhiều mặt trong các thời kỳ sau, bảo đảm phân phối hợp lý các lực lượng sản xuất trên cơ sở kết hợp với những lợi ích của nền kinh tế quốc dân với những quyền lợi thích đáng của người lao động ở những vùng xa xôi hẻo lánh, bảo đảm sự phát triển đồng đều về kinh tế và văn hóa giữa các vùng, bảo đảm sự an ninh ở các miền biên giới… Thực tế cho thấy rằng việc đưa thẳng nông dân vào các nông trường quốc doanh không những là biện pháp có thể áp dụng, được nông dân nhiệt liệt hưởng ứng mà còn là hết sức cần thiết đối với những nơi có những khó khăn mà sản xuất cá thể và ngay cả sản xuất tập thể cũng khó có khả năng vượt qua. Chỉ có Nhà nước, tức sự tập trung sức mạnh của cả nước, mới có khả năng giúp người nông dân vượt qua nhanh chóng những khó khăn này và tạo ra một tình thế phát triển đồng đều trong cả nước, về mặt sản xuất cũng như về mặt phân phối và các mặt khác của đời sống xã hội. Tất nhiên, con đường này đòi hỏi ở phía Nhà nước một số điều kiện không thể thiếu: khả năng tài chính, khả năng cung cấp vật tư, thiết bị, khả năng cung cấp cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật…

Kinh nghiệm thành công của nhân dân Bun-ga-ri cũng như của nhân dân Liên Xô và nhiều nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đã khẳng định một nguyên lý: hợp tác xã hay nông trang tập thể không phải là con đường duy nhất để đưa nông dân cá thể lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mặc dầu đó là con đường dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Trong những điều kiện nhất định, rất có thể và cần thiết thu hút nông dân vào thẳng các nông trường quốc doanh – hình thức cao nhất của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa – mà không phải qua một hình thức trung gian nào.

Nói tới cách mạng quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, không thể không đặc biệt chú ý tới những hình thức tổ chức và quản lý mới trong nền nông nghiệp xã hội của nghĩa, APK là một trong những hình thức đó.

Ở các nước xã hội chủ nghĩa phát triển, sau khi nông nghiệp đã hoàn thành quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cũng tức là khi nông nghiệp đã được cơ giới hóa, hiện đại hóa, khi công nghiệp đã thâm nhập tới “lục phủ, ngũ tạng” của nền nông nghiệp, thì một số vấn đề lớn được đặt ra: làm thế nào để kết hợp được những khâu có tính chất thuần túy nông nghiệp với những khâu có tính chất công nghiệp nhưng lại phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho nông nghiệp mà thiếu nó, hoặc nếu xảy ra trục trặc trong sự kết hợp đó thì bản thân sản xuất nông nghiệp không sao tiến hành nổi? Làm thế nào để cho nông nghiệp thích ứng được với những thành tựu mới của kỹ thuật do công nghiệp sáng tạo ra, để nông nghiệp có thể tiếp thu dễ dàng những thành tựu đó vì lợi ích của bản thân nó, hay nói cách khác, để công nghiệp hóa nông nghiệp ở trình độ cao hơn, tương xứng với trình độ mà kỹ thuật công nghiệp hiện đại cho phép? Giải quyết những vấn đề này không thể không động chạm tới những hình thức tổ chức và quản lý sẵn có trong nông nghiệp.

Cũng như ở Bun-ga-ri, nhiều nước xã hội chủ nghĩa anh em khác như Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Tiệp-khắc, Hung-ga-ri… cũng tiến hành tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý nông nghiệp, nhằm kết hợp chặt chẽ hơn nữa công nghiệp với nông nghiệp, đẩy nhanh tốc độ hiện đại hóa nông nghiệp. Có thể nói, đó là một quá trình có tính quy luật do chính sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp đòi hỏi. Song, điều đáng chú ý là, việc cải tiến quản lý nông nghiệp ở Bun-ga-ri, so với nhiều nước anh em có sự khác nhau về hình thức thực hiện, hay nói chính xác hơn: khác nhau về phương thức kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, phương thức thực hiện sự hợp tác và phân công cao hơn trong nông nghiệp, gắn liền với những vấn đề đó là quy mô của xí nghiệp nông nghiệp. Bun-ga-ri thực hiện việc kết hợp công nghiệp với nông nghiệp (công nghiệp ở đây có nghĩa là các xí nghiệp chế biến nông sản, xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc, các xí nghiệp chăn nuôi công nghiệp, các trạm máy kéo và máy móc nông nghiệp, thậm chí cả máy bay phục vụ nông nghiệp…) ngay trong khuôn khổ một xí nghiệp – APK và do vậy, APK có quy mô lớn hàng vạn héc ta. Ở các nước xã hội chủ nghĩa khác (và trước khi thành lập APK thì ở Bun-ga-ri cũng vậy), các hợp tác xã hay nông trường quốc doanh chỉ liên hiệp với nhau để kinh doanh từng đối tượng sản xuất nhất định (hình thức này gọi là liên doanh) như tổ chức chung một xí nghiệp chăn nuôi công nghiệp hay một xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc, một xí nghiệp chế biến nông sản, trong khi mỗi hợp tác xã hay nông trường vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân, vẫn là những xí nghiệp sản xuất độc lập. Và vì vậy, quy mô của mỗi xí nghiệp nông nghiệp (hợp tác xã hay nông trường) không lớn, có khi chỉ trên dưới 1.000 héc ta.

Trong thời đại ngày nay, khi nông nghiệp đã đạt đến trình độ cơ giới hóa toàn bộ và ngày càng đòi hỏi áp dụng những kỹ thuật hiện đại theo hướng công nghiệp hóa nông nghiệp, thì hiển nhiên, một xí nghiệp có quy một một vài nghìn héc ta tỏ ra là không đủ sức đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất nữa. Một xí nghiệp hiện đại chế biến thức ăn gia súc đòi hỏi một diện tích trồng cây thức ăn gia súc không phải hàng trăm héc ta mà nhiều nghìn héc ta. Một trại chăn nuôi công nghiệp (bò, lợn, gà) cũng đòi hỏi một diện tích trồng trọt nhiều nghìn héc ta làm nguồn thức ăn cho nó. Một nhà máy chế biến hoa quả hay một kho lạnh bảo quản hoa quả đòi hỏi một diện tích trồng cây ăn quả tập trung và chuyên môn hóa rộng hàng nghìn héc ta. Hệ thống máy kéo có công suất lớn, một hệ thống liên hợp máy gặt đập, việc sử dụng máy bay vào sản xuất nông nghiệp… không thể đạt được hiệu quả kinh tế cao khi địa bàn hoạt động của những phương tiện này chỉ thu hẹp trong phạm vi một xí nghiệp có quy mô trên dưới 1.000 héc ta. Như vậy việc hiện đại hóa nông nghiệp, đưa kỹ thuật công nghiệp hiện đại vào nông nghiệp đòi hỏi sản xuất nông nghiệp phải đạt đến trình độ tập trung hóa và chuyên môn hóa cao hơn, một địa bàn hoạt động lớn hơn, một khối lượng vốn đầu tư lớn hơn cho mỗi công trình, một hệ thống phân công và hợp tác phức tạp và rộng lớn hơn giữa các xí nghiệp nông nghiệp với nhau cũng như giữa các xí nghiệp nông nghiệp với các xí nghiệp công nghiệp vận tải, tiêu thụ… Để đáp ứng những yêu cầu mang tính tất yếu khách quan này, không thể không mở rộng quy mô của các xí nghiệp công nghiệp.

Nhưng mở rộng bằng hình thức nào?

Hình thức áp dụng phổ biến trong nhiều nước xã hội chủ nghĩa là hình thức liên doanh. Một hợp tác xã hay một nông trường quốc doanh có thể chung vốn, chung sức cùng nhiều hợp tác xã và nông trường khác tổ chức ra một xí nghiệp mới, chuyên môn hóa về một khâu sản xuất hay một đối tượng sản xuất nhất định: chế biến thức ăn gia súc, chế biến rau quả, nuôi bò, nuôi lợn, nuôi gà, xây dựng cơ bản ở nông thôn, nông hóa (bón phân, trừ sâu bệnh, cải tạo đất) hoặc sử dụng chung một hệ thống máy móc nông nghiệp có công suất lớn… Với hình thức liên doanh này, một hợp tác xã hay một nông trường vẫn giữ nguyên quy mô cũ của nó (quy mô giả định là hợp lý đối với những phần việc còn lại), vẫn giữ nguyên tính độc lập về tài chính của nó, vậy mà vẫn thỏa mãn được yêu cầu hiện đại hóa và mở rộng quy mô sản xuất của một số ngành sản xuất nhất định. Trong một số trường hợp, người ta tiến hành liên doanh giữa mấy chục hợp tác xã và nông trường (ví dụ trong trường hợp tổ chức ra một trại chăn nuôi hiện đại hay một xí nghiệp chế biến). Một hợp tác xã hay nông trường có khi tham gia tới 6-7 liên doanh, nhằm những mục tiêu sản xuất khác nhau. Thành viên của liên doanh này không nhất định là thành viên của liên doanh kia. Tham gia vào liên doanh nào và tham gia vào lúc nào, điều đó là tùy sự cần thiết khách quan do trình độ phát triển của từng ngành sản xuất ở mỗi hợp tác xã và nông trường quy định. Mỗi liên doanh cần thu hút bao nhiêu hợp tác xã và nông trường, điều đó là do quy mô diện tích trồng trọt, quy mô vốn đầu tư cần thiết cho việc xây dựng ngành sản xuất mới hay xí nghiệp mới. Lợi nhuận do ngành sản xuất mới hay xí nghiệp mới mang lại được phân phối tùy theo tỷ lệ đóng góp của các tổ chức thành viên.

Hình thức liên doanh càng phát triển thì các ngành sản xuất có tính chất công nghiệp (hoặc các khâu sản xuất có tính chất công nghiệp) trong nội bộ một hợp tác xã hay nông trường càng tách rời ra để sáp nhập với ngành sản xuất tương ứng của các hợp tác xã và nông trường khác, làm thành một xí nghiệp sản xuất độc lập, quy mô lớn và trang bị hiện đại. Ngành sản xuất duy nhất gắn liền với hợp tác xã và nông trường, cuối cùng sẽ chỉ còn là ngành trồng trọt. Ngay với ngành trồng trọt này, hợp tác xã hay nông trường cũng không còn bao gồm đủ các khâu sản xuất hoàn chỉnh trong lòng nó nữa, nhiều khâu đã tách riêng ra thành những xí nghiệp độc lập (tưới nước, nông hóa, gặt đập…), và với tư cách đó, chúng quay trở lại phục vụ việc trồng trọt của hợp tác xã hay nông trường. Một khi hợp tác xã hay nông trường chỉ chuyên lo việc trồng trọt, và chỉ trồng trọt một số ít loại cây trồng nhất định phải mở rộng ra hàng vạn héc ta. Tùy theo loại cây trồng được chọn làm đối tượng sản xuất chuyên môn hóa mà quy mô diện tích có thể chỉ cần mấy nghìn hoặc mấy trăm héc-ta đã được xem là quy mô tối ưu rồi. Quy mô diện tích của một hợp tác xã hay nông trường mà quá lớn thì cũng không tránh khỏi một số điều bất lợi như: khoảng cách giữa chỗ ở và địa điểm làm việc của người lao động quá xa, chi phí vận chuyển tăng lên, công việc quản lý khó quán xuyến chu đáo đối với một địa bàn quá rộng… Một hợp tác xã hay nông trường mà bao gồm trong lòng nó nhiều xí nghiệp sản xuất chuyên môn hóa và quy mô lớn như trại bò, trại lợn, trại gà, xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc, xí nghiệp chế biến nông sản, đội xây dựng… thì việc quản lý cũng rất phức tạp. Ưu điểm của hình thức liên doanh là ở chỗ nó cho phép người ta tránh được những điều bất lợi kể trên mà vẫn đáp ứng được yêu cầu chuyên môn hóa, hiện đại hóa và mở rộng quy mô của tất cả các ngành sản xuất và khâu sản xuất bao gồm trong sản xuất nông nghiệp. Nói một cách vắn tắt, ưu điểm của nó là gọn nhẹ và linh hoạt. Đương nhiên, hình thức liên doanh cũng không phải không có một số nhược điểm nhất định. Một hợp tác xã hay nông trường mà giao phó hàng loạt khâu và ngành sản xuất cho các xí nghiệp liên doanh lo liệu (mỗi xí nghiệp liên doanh này lại không phải chỉ có trách nhiệm thỏa mãn yêu cầu của một hợp tác xã hay nông trường mà có trách nhiệm cùng một lúc thỏa mãn yêu cầu của nhiều hợp tác xã hay nông trường), nếu không có một năng lực tổ chức rất chu đáo kèm theo những biện pháp rất hiệu nghiệm bảo đảm một sự phối hợp chính xác, đồng bộ, thì sản xuất rất dễ bị ảnh hưởng do những trục trặc trong mạng lưới phân công và hợp tác hết sức phức tạp đó.

Một khi nhiều ngành sản xuất và khâu sản xuất bao gồm trong sản xuất nông nghiệp đã tách riêng ra thành những xí nghiệp độc lập mang tính chất công nghiệp, thì một vấn đề mới được đặt ra: phải có một hình thức nào đó để kết hợp tất cả các ngành và các khâu sản xuất đó lại, nếu không thì quá trình sản xuất nông nghiệp không sao tiến hành trôi chảy được. Vấn đề đó, người ta gọi là kết hợp công nghiệp với nông nghiệp. Nếu khuynh hướng tất yếu của sản xuất lớn trong nông nghiệp – cũng như trong công nghiệp (nói cho đúng hơn: khi nông nghiệp đã bị công nghiệp xâm nhập, bị công nghiệp cải tạo theo hình ảnh của chính nó thì quy luật phát triển của công nghiệp tất phải trở thành quy luật phát triển của bản thân nông nghiệp) – là tách dần mỗi ngành và mỗi khâu của sản xuất nông nghiệp ra, biến chúng thành những xí nghiệp độc lập có tính chất công nghiệp và quy mô lớn. Sự tách rời đó, bản thân nó lại đòi hỏi phải được bổ sung bằng một khuynh hướng đối lập, cũng tất yếu không kém khuynh hướng trên: kết hợp tất cả các ngành và các khâu đó lại để “trả lại” cho quá trình sản xuất nông nghiệp tính hoàn chỉnh vốn có của nó.

Dùng những hình thức nào để thực hiện sự kết hợp đó? Hình thức nào hoặc những hình thức nào là hình thức tối ưu để thực hiện sự kết hợp đó? APK, liên doanh nông trường – nhà máy, nông trang – nhà máy (một nông trường hay một nông trang kết hợp với một nhà máy thành một xí nghiệp duy nhất để làm ra một sản phẩm nào đó, từ khâu sản xuất nông nghiệp đến khâu chế biến công nghiệp) và nhiều hình thức liên hiệp khác đều là những hình thức mới sản sinh ra trong những năm gần đây, nhằm thực hiện sự kết hợp đó. Những hoàn cảnh cụ thể khác nhau, những yêu cầu cụ thể khác nhau tất yếu phải sản sinh ra những hình thức cụ thể khác nhau. Tất cả các hình thức đều phải trả lời những câu hỏi của đời sống và đang được thử thách trong đời sống.

Nói về hình thức APK, Đảng Cộng sản Bun-ga-ri cho rằng “nên đánh giá nó như một trong những con đường cụ thể, một trong những hình thức cụ thể” hoặc “một hình thức tập trung sản xuất thích hợp nhất với những điều kiện của Bun-ga-ri”.

Kể từ khi thành lập đến nay, APK đã thành lập và hoạt động được 8 năm. Thời gian đó khá đủ để thử thách một hình thức tổ chức và quản lý mới trong nông nghiệp. Qua những số liệu so sánh về sản lượng, năng suất và thu nhập của các APK (không kể kinh tế phụ gia đình của nông trang viên và nông trường viên) trong khoảng thời gian 1971-1975, chúng ta có thể thấy được phần nào sức sống của các APK.

Biểu 43: Những chỉ tiêu kinh tế cơ bản của các APK

  Đơn vị tính 1971 1975
Tổng số người lao động sản xuất Nghìn người 1.064 985
Diện tích canh tác Nghìn ha 3.156 3.204
Diện tích trồng lương thực Nghìn ha 993 1.969
Diện tích trồng lúa mì Nghìn ha 1.014 819
Chỉ số phát triển tổng sản lượng nông nghiệp:

– trồng trọt

– chăn nuôi

  100

100

100

112

110

116

Tổng sản lượng lương thực Nghìn tấn 6.178 6.562
Thuốc lá (lá khô) Nghìn tấn 101 158
Củ cải đường Nghìn tấn 1.500 1.748
Đàn gia súc lớn Nghìn con 1.036 1.256
Lợn Nghìn con 1.660 1.932
Gia cầm Triệu con 12,7 21
Sản lượng thịt Nghìn tấn 294 324
Sữa Nghìn tấn 1.232 1.335
Trứng gà Triệu quả 757 956
Lông cừu Nghìn tấn 19,1 23,6
Năng suất lúa mì Tấn/ha 30,7 34,1
Năng suất ngô hạt Tấn/ha 39,5 43,8
Tỷ lệ chăn nuôi trong tổng số giá trị sản lượng nông nghiệp % 35,3 43,8
Thu nhập bình quân của 1 công nhân nông nghiệp Lê-va/năm 1.581 2.429

So với tốc độ phát triển của nông nghiệp trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác cùng thời gian, ta thấy tốc độ phát triển nông nghiệp của Bun-ga-ri chẳng những không thua kém mà còn có phần cao hơn tương đối. Nếu lấy mức năm 1970 là 100, thì năm 1975 của Bun-ga-ri là 116, Liên Xô: 103, Cộng hòa dân chủ Đức: 115, Tiệp Khắc: 114, Cuba: 111, Ba-lan: 119, Hung-ga-ri: 128. Nếu xét riêng ngành chăn nuôi là ngành mà Bun-ga-ri chủ trương phải đẩy nhanh hơn trồng trọt, thì chỉ số năm 1975 của Bun-ga-ri là 128, Liên Xô: 114, Cộng hòa dân chủ Đức: 125, Tiệp-khắc: 115, Cu-ba: 117, Hung-ga-ri: 118, Ba-lan: 129.

Dựa trên những thành tựu của các APK, đồng chí Tô-đo Gip-cốp nhận xét: “Trải mấy năm qua, các APK đã vượt qua những thử thách của thời gian một cách thắng lợi”.

Tuy nhiên không phải vì thế mà về mặt lý luận APK không còn là một đề tài nghiên cứu, tranh luận nữa. Một hình thức tổ chức lại nền sản xuất nông nghiệp của một nước, nhằm những tham vọng hết sức to lớn, quả thật đáng để cho các nhà kinh tế nghiên cứu, theo dõi. Đặc biệt là nếu như đây không chỉ là một hình thức đặc thù, chỉ thích hợp với những điều kiện đặc thù của một nước, mà còn có thể là một mô hình, một kiểu mẫu, một trong những hình thức tối ưu của nền đại nông nghiệp xã hội chủ nghĩa đang trong quá trình thử nghiệm, thì ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu càng lớn. Nội dung vấn đề nghiên cứu tranh luận có thể tóm tắt như sau:

Đặt một ngành sản xuất rất đa dạng, “đa ngành” như nông nghiệp trong khuôn khổ một xí nghiệp khổng lồ thì liệu có thể lãnh đạo và quản lý tốt được không? Liệu có bộ máy kế hoạch hóa và quản lý nào quán xuyến được những hoạt động nhiều mầu nhiều vẻ của cái cơ thể vừa tinh vi vừa hỗn tạp đó không? Một bộ máy kế hoạch hóa và quản lý mà ôm đồm như thế thì liệu có cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc, quan liêu, đại khái hay không?

Nếu quy tất cả mọi hoạt động kinh tế rất đa dạng, có những quy mô tối ưu rất khác nhau của sản xuất công nghiệp và nông nghiệp vào trong một khuôn khổ thật to, lấy đó làm bội số chung cho tất cả các quy mô khác trong lòng nó, thì cái khuôn khổ thật to kia, tự nó, đâu phải là giải pháp cho sự kết hợp công nghiệp và nông nghiệp, đâu phải là điều kiện tốt nhất để thực hiện sự kết hợp đó?

Sự kết hợp tất yếu giữa công nghiệp và nông nghiệp có tất yếu phải được thực hiện trong khuôn khổ một tổ chức khép kín hay không, và sự khép kín đó có cứng nhắc quá hay không? Tại sao không thể thực hiện sự kết hợp đó bằng những hình thức gọn nhẹ và linh hoạt hơn, chẳng hạn như liên doanh, nông trang – nhà máy, … gọn nhẹ, linh hoạt mà vẫn đạt được mục đích? Đối với việc tập trung vốn đầu tư, áp dụng kỹ thuật mới vào nông nghiệp, tập trung hóa và chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp, cũng cần phải nói như vậy. Nếu thế thì hình thức APK có khả năng làm được gì hơn hình thức liên doanh, với cái hình dạng cồng kềnh và ôm đồm của nó?

Những câu hỏi trên đây – những câu hỏi được nêu ra với một tinh thần hoài nghi khoa học nghiêm túc – không phải không từng được đặt ra với các nhà kinh tế Bun-ga-ri, kể cả các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Bun-ga-ri.

Vì vậy tìm hiểu luận điểm của các nhà kinh tế Bun-ga-ri chắc chắn sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề mà chúng ta quan tâm.

Trước hết, cần phải chỉ ra rằng nền nông nghiệp Bun-ga-ri không phải là chưa biết đến hình thức liên doanh. Trước khi tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hình thức APK, tức là trước năm 1970, thì liên doanh đã từng là hình thức phổ biến trong nông nghiệp Bun-ga-ri. Cũng như ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, từ những năm 1962-1963 và kế tiếp các năm sau đó, do chính yêu cầu của cuộc sống, các hợp tác xã và nông trường ở Bun-ga-ri đã chủ động hợp tác với nhau trong rất nhiều hoạt động vượt ra ngoài khả năng của một xí nghiệp riêng lẻ. Những hình thức hợp tác này rất đa dạng và phong phú: hợp lực xây dựng các bể chứa nước và hệ thống tưới nước theo kỹ thuật hiện đại, góp vốn xây dựng các trại vỗ béo lợn, trại bò, trại gà công nghiệp, xây dựng các kho lạnh hiện đại để bảo quản hoa quả và thịt, chung vốn mua thiết bị toàn bộ cho một nhà máy vắt sữa và chế biến sữa hiện đại, xây dựng chung một sân bay cho các máy bay phục vụ nông nghiệp, xây dựng chung những xí nghiệp cơ khí để phục vụ sửa chữa máy móc, thiết bị.

Một ví dụ cụ thể: từ những năm 60, do sự phát triển mạnh của ngành chăn nuôi bò sữa, vấn đề cải tiến và nâng cao năng suất của khâu vắt sữa và chế biến sữa trở thành một yêu cầu cấp bách. Các cơ sở cũ của các hợp tác xã và nông trường đã tỏ ra lạc hậu và bất lực trước yêu cầu đó. Vì vậy, Bun-ga-ri đã nhập hàng loạt hệ thống thiết bị vắt sữa theo kỹ thuật tiên tiến, hệ thống Ca-ru-xen (carrousel) của Cộng hòa dân chủ Đức, hệ thống Kon-xô-môn-ka (Komsomolka) của Liên Xô, hệ thống An-pha-la-van (Alpha laval) của Thụy Điển… Công suất của mỗi hệ thống này đòi hỏi phải có từ 1.500 đến 2.000 con bò sữa loại tốt cung cấp sữa. Nhưng không có một hợp tác xã hay nông trường nào có số bò sữa lớn như thế. Việc liên doanh trong lĩnh vực nuôi bò sữa, vắt sữa và chế biến sữa trở thành hình thức kinh doanh có lợi nhất.

Như vậy, hình thức liên doanh chẳng những đã được biết đến, mà còn được sử dụng rộng rãi trong nền nông nghiệp Bun-ga-ri rất lâu trước khi thành lập APK. Trong những điều kiện như vậy, ở Bun-ga-ri người ta không coi APK như là một cái gì đối lập với liên doanh, mà coi chính nó là một hình thức liên doanh, là một sự kế thừa những bước phát triển của liên doanh và là một hình thức liên doanh cao hơn.

Điều mà APK làm được không phải chỉ là đưa quy mô của xí nghiệp từ 4 nghìn héc ta lên 2-3 vạn héc ta, không phải chỉ làm cho mỗi thửa đất trồng được mở rộng gấp 10-15 lần, không phải chỉ là tập trung vốn lại để xây dựng các trại chăn nuôi khổng lồ, cũng không phải chỉ thay thế các xí nghiệp công nghiệp nho nhỏ của mỗi hợp tác xã và nông trường bằng những xí nghiệp hiện đại có công suất lớn hơn một vài chục lần. Đương nhiên là APK cũng có giải quyết những nhiệm vụ đó. Nhưng nếu chỉ để giải quyết những nhiệm vụ như thế thì không nhất thiết phải cất công cải tổ lại toàn bộ nền nông nghiệp theo hình thức APK. Các hình thức liên doanh mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa anh em (cũng như bản thân Bun-ga-ri) đang áp dụng đã giải quyết được những nhiệm vụ đó một cách trôi chảy mà không đòi hỏi một sự đảo lộn nào trong phương thức tổ chức nền nông nghiệp. Chính vì đôi khi APK được hiểu như là một hình thức cũng chỉ để giải quyết những yêu cầu kể trên, cho nên không khỏi có những câu hỏi về lý do ra đời của nó.

Thực ra, khi quyết định xây dựng APK, Đảng cộng sản Bun-ga-ri còn gửi gắm ở nó nhiều ý đồ lớn lao hơn. Ý đồ cơ bản có ý nghĩa chiến lược là thông qua việc xây dựng APK mà xếp đặt lại tất cả quan hệ giữa các ngành và các khâu của sản xuất nông nghiệp theo nguyên tắc hợp lý nhất, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, và xuất phát từ yêu cầu đó mà xếp đặt lại địa bàn của sản xuất nông nghiệp, phân bố lại toàn bộ sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung hóa và chuyên môn hóa cao hơn.

Vấn đề được đặt ra như sau: Việc đưa các quá trình công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp là một tất yếu khách quan. Cần phải kết hợp sản xuất nông nghiệp với những ngành công nghiệp phục vụ cho nó. Điều đó đã trở thành hiện tượng phổ biến trong nền nông nghiệp hiện đại. Nhưng nếu quy mô của các hợp tác xã và nông trường quốc doanh, giả định là đã và vẫn còn hợp lý đối với ngành sản xuất chính của nó, chủ yếu là ngành trồng trọt, hoặc là ngành trồng ngũ cốc, hoặc là trồng rau, trồng nho, hay một thứ cây nào được chọn làm đối tượng sản xuất chủ yếu, thì nó lại không còn là hợp lý đối với những ngành và khâu khác phục vụ cho sản xuất chính nó, chẳng hạn như chăn nuôi, cung cấp kỹ thuật, chế biến công nghiệp… Bước vào những năm 60, trong nông nghiệp Bun-ga-ri cũng như ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đã xuất hiện những mâu thuẫn này. Để giải quyết mâu thuẫn, hình thức liên doanh đã xuất hiện như chúng ta đã biết.

Nhưng đến một lúc nào đó, cụ thể là bước vào những năm 70, khi hình thức liên doanh đã áp dụng khá rộng rãi, thì trước mắt những nhà kinh tế Bun-ga-ri xuất hiện một loạt vấn đề mới:

Nếu giữa các xí nghiệp nông nghiệp tất yếu phải có một sự liên hiệp mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của một số ngành hay một số khâu nào đó của sản xuất nông nghiệp, thì liệu có nên để các xí nghiệp này tìm đến nhau một cách tự do tùy tiện, chỉ dựa trên những sự tính toán hiệu quả của bản thân các xí nghiệp đó hay không? Sự liên hiệp ít nhiều có tính chất tự phát và tùy ý đó liệu có thể tạo ra được một tính hợp lý tối ưu xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân hay không? Nếu liên hiệp là một xu hướng tất yếu trong toàn bộ nền sản xuất nông nghiệp, thì tại sao không thể đặt vấn đề thực hiện nó theo một quy hoạch chung trên phạm vi cả nước, dựa trên những sự tính toán hiệu quả tổng hợp?

Giả định như cái quy mô cũ và sự tồn tại của các đơn vị cũ vẫn là hình thức thích hợp với ngành sản xuất chính của các đơn vị đó – ngành trồng trọt – nhưng sau khi đã thực hiện sự liên doanh và do đó, mở rộng quy mô sản xuất trên hàng loạt ngành khác và hàng loạt khâu sản xuất của bản thân ngành trồng trọt đó rồi, thì trước cái thực tế đã đổi khác đó, liệu cái quy mô cũ còn sót lại của bản thân ngành trồng trọt có còn là hợp lý nữa không, và liệu cái đơn vị kinh tế cũ có nên tiếp tục bám vào cái mảnh đất cuối cùng ấy để tồn tại nữa hay không? Tại sao người ta có thể liên hiệp tất cả hoặc hầu như tất cả các ngành và các khâu khác của sản xuất nông nghiệp, mà lại bắt buộc phải chừa lại chính cái ngành quan trọng nhất của nó – ngành trồng trọt? Và trong sự lạc lõng ấy, liệu ngành này có tránh khỏi sự tất yếu phải liên hiệp lại cũng theo một xu thế chung đó hay không?

Do nguồn gốc và tính chất của nó, một cuộc cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp diễn ra trước hết ở những khâu có tính chất công nghiệp, rồi sau đó mới ảnh hưởng dây chuyền đến các khâu khác. Chính vì lẽ đó, nhu cầu liên hiệp – và do đó, liên doanh – nẩy sinh ra trước hết và bức bách nhất trong các bộ phận có tính chất công nghiệp: chăn nuôi công nghiệp, chế biến nông phẩm, trang bị kỹ thuật… Nhưng sự việc không dừng lại ở đấy. Điều đã xẩy đến với các bộ phận có tính chất công nghiệp, sớm muộn sẽ xẩy đến (trong thực tế đã và đang xẩy đến) với các bộ phận khác, kể cả cái bộ phận cốt yếu nhất của sản xuất nông nghiệp là trồng trọt. Vậy thì liệu có nên cứ để cho những sự liên hiệp trên tất cả các bộ phận khác và tất cả các khâu khác tự phát hình thành, rồi một ngày nào đó, đến lượt ngành trồng trọt cùng bản thân những đơn vị kinh tế còn lưu lại với nó cũng phải liên hiệp lại và tổ chức lại, nhưng liên hiệp lại và tổ chức lại trong một cơ cấu đã hình thành sẵn gồm tất cả các bộ phận hữu cơ khác? Nếu đến lúc đó, trong số những “việc đã rồi” đó có cái gì là bất hợp lý đối với việc tổ chức lại bản thân ngành trồng trọt, thì ngành trồng trọt liệu có phải uốn mình thích nghi với cái cơ cấu đã hình thành sẵn đó hay không? Liệu lúc đó có phải tổ chức lại một lần nữa những cái đã được tổ chức lại sao cho phù hợp với cuộc cải tổ bộ phận cuối cùng nhưng lại là bộ phận cốt yếu nhất của sản xuất nông nghiệp hay không? Trong thực tế đã từng xảy ra những trường hợp như thế. Chẳng hạn ở tỉnh Tôn-bu-khin, có 9 hợp tác xã trồng nho chung nhau xây dựng một xí nghiệp ép nho để chế biến thành rượu và nước ngọt. Những vùng đó về cơ bản lại là vùng trồng lúa mì. Khi đặt ra vấn đề thu hẹp diện tích trồng lúa mì của cả nước và tập trung việc trồng lúa mì vào khu vực trọng điểm này, thì việc trồng nho lẻ tẻ của một số hợp tác xã ở đây buộc phải chuyển hướng. Nếu chỉ có việc thay đổi cây trồng cũng không có gì khó lắm. Nhưng còn cả cái nhà máy chế biến nho kia, liệu có nên dỡ đi không? Một trường hợp khác: 8 hợp tác xã ở tỉnh Plô-đíp đã chung sức xây dựng một đường băng cho máy bay phục vụ nông nghiệp, nhưng khi cả vùng này được đặt trong quy hoạch mới là trồng cỏ để chăn nuôi, thì đường băng đó trở nên thừa, hơn nữa còn biến thành chướng ngại cho việc mở rộng diện tích trồng trọt.

Đặt vấn đề như trên cũng tức là giải quyết vấn đề. Hình thức APK được “phát hiện ra” chính là theo cách giải quyết vấn đề như vậy.

Với việc xây dựng các APK, cả nước Bun-ga-ri đã tiến hành điều chỉnh, sắp xếp lại các ngành và các khâu của sản xuất nông nghiệp, sắp xếp lại một cách cơ bản địa bàn sản xuất, cũng tức là phân vùng lại sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung hóa và chuyên môn hóa cao độ. Đây quả là một cuộc “sắp xếp lại giang sơn” theo đúng nghĩa đen của chữ đó. Toàn bộ ngành sản xuất lương thực, trước đây khi còn nằm trong tay các hợp tác xã và nông trường, được tiến hành trên 45.000 mảnh đất canh tác, với quy mô trung bình mỗi mảnh là 40 héc ta. Đến năm 1976, địa bàn của ngành này đã được sắp xếp lại thành hơn 5 nghìn mảnh, mảnh nhỏ nhất cũng rộng 200 héc ta, mảnh lớn nhất tới 500 héc ta. Hơn 80% số cây lưu niên được quy vào những khu vườn lớn từ 400-500 héc ta. Những vườn nho liền khoảnh đã hình thành với quy mô mỗi khoảnh từ 1.000 đến 2.500 héc ta (để tiện việc phun thuốc trừ sâu bằng máy bay). Nghề trồng rau, trước năm 1970, được tiến hành trên 17.000 mảnh đất. Năm 1970 đã được tập trung lại trên 260 mảnh, với quy mô trung bình mỗi mảnh là 315 héc ta. Trong các ngành trồng bông, trồng củ cải đường, trồng lúa… tình hình cũng diễn ra như vậy.

Quá nửa số lợn của Bun-ga-ri được nuôi trong 39 trại lợn hiện đại khổng lồ, mỗi trại nuôi từ 12.000 tới 46.000 con. Đến năm 1974, 46% tổng số thịt gà là do 33 xí nghiệp nuôi gà khổng lồ cung cấp, 36,4% số thịt bò là do 12 xí nghiệp nuôi bò thịt cung cấp.

Trên những địa bàn mới này, lao động được tổ chức thành các ê-kíp (đội sản xuất), với tính cách những đơn vị sản xuất cơ bản. Ở những nơi đã tổ chức sản xuất theo hình thức ê-kip này, năng suất lao động được nâng cao vượt bậc, đồng thời, mức trang bị máy móc tính bình quân cho mỗi héc ta cũng như cho mỗi đơn vị sản phẩm giảm đi tương đối. Thí dụ ê-kíp sản xuất ngũ cốc thuộc APK Nô-va-Da-gô-ra, năm 1975, phụ trách canh tác 2.363 héc ta, nhưng chỉ gồm 21 công nhân, với 16 máy kéo và 10 máy gặt đập. Trung bình mỗi người đảm nhiệm 112,5 héc ta. Cũng năm đó, ê kíp sản xuất ngũ cốc ở các APK Tôn-bu-khin-I-dơ-tốc phụ trách canh tác 5.150 héc ta, nhưng chỉ có 67 người, với 52 máy kéo và 35 máy gặt đập. Trên các cánh đồng này, năng suất lúa mì, đạt 5.220kg, ngô: 5.500kg, hướng dương: 2.400 kg, đậu: 2.310kg, hơn hẳn năng suất bình quân toàn quốc. Ê-kíp trồng nho thuộc APK Pô-mô-ri-ê, trước năm 1973 phụ trách 300 héc ta canh tác, tức là một bộ phận của một vườn nho liền khoảnh lớn hơn. Từ năm 1973 ê kíp này đã sử dụng lần đầu tiên một loại máy hái nho mới do Bun-ga-ri sản xuất. Trước kia, mỗi công nhân phụ trách 4 héc ta. Với các máy loại mới này, mỗi công nhân phụ trách 10 héc ta. Toàn ê-kíp có 75 người, từ năm 1973 phụ trách 720 héc ta canh tác. Năng suất nho được nâng cao vượt bậc: 10.300 kg/ha, trong khi năng suất trung bình toàn quốc là 4-5 tấn/ha.

Tính đến năm 1973, đã có khoảng 2,2 triệu héc ta đất trồng được sắp đặt lại thành những mảnh lớn theo hướng tập trung hóa và chuyên môn hóa như trên. Trên những diện tích này, đã hoàn thành việc cơ giới hóa toàn bộ ngành trồng ngô. Đối với những đội trồng lúa mì, đã áp dụng quy trình cơ giới hóa cả khâu cuối cùng là khâu giao bán, tức là giao bán ngay từ các máy gặt đập.

Nhận thức đầy đủ tính chất phức tạp của quá trình tổ chức lại sản xuất nông nghiệp qua việc xây dựng các APK, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Bun-ga-ri đã chỉ thị “Bao nhiêu doanh nghiệp và doanh nghiệp nào đưa vào APK, việc đó nhất thiết không được phép xác định bằng cách nhìn hời hợt, mà chỉ được xác định sau khi đã nghiên cứu cặn kẽ tính chất và khả năng phát triển sản xuất, nghiên cứu những điều kiện tự nhiên và kinh tế. Thành phần và quy mô của mỗi APK phải được xác định sau khi đã xây dựng nhiều phương án, dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu và sự phát triển trước mắt và lâu dài của các APK, về những quan hệ giữa nó với các APK khác nằm trong vùng lân cận”. Về công tác lãnh đạo và quản lý trong các xí nghiệp nông nghiệp khổng lồ này. Trung ương Đảng đã chỉ thị: “Bất cứ trong trường hợp nào cũng không được phép làm cồng kềnh thêm bộ máy và tăng thêm sức ì, cùng với nạn quan liêu trong bộ máy đó. Ngay từ đầu phải đảm bảo tính chất khoa học, tính chất hành động, tính chất nhạy bén và do đó, bảo đảm hiệu quả cao của công tác lãnh đạo”. “Kinh nghiệm của bản thân chúng ta đã dạy chúng ta rằng một hệ thống phình lên quá to thì không tránh khỏi nạn quan liêu. Điều đó không thể tạo ra một sự chỉ đạo nhạy bén và có hiệu quả được. Chính vì lý do đó chúng ta phải chuyển sang một hệ thống quản lý chỉ có hai hoặc ba cấp thôi. Đó chính là cách để tinh giản việc quản lý. Không bao giờ được quên rằng cái chủ yếu nhất của quản lý là và sẽ mãi mãi là: nó ra đời để quản lý con người và những tập thể lao động, chứ không phải để nuôi sống chính nó”.

Ở những APK đã tổ chức xong việc quản lý theo chiều dọc (tính đến năm 1974, đã có 43 trong tổng số 164 APK hoàn thành việc này) thì chỉ còn có 2 cấp quản lý: APK và ê-kip. Ở những APK khác còn tạm thời duy trì các đơn vị theo lãnh thổ (hợp tác xã và nông trường cũ) thì tạm thời vẫn còn 3 hoặc 4 cấp quản lý.

Trên đây chúng ta đã xem xét APK như là một hình thức tổ chức lại toàn bộ nền sản xuất nông nghiệp trên cơ sở công nghiệp, nhằm mau chóng hiện đại hóa nông nghiệp, nâng cao năng suất lao động, sản xuất nhiều nông phẩm hơn với chi phí thấp hơn. Ý nghĩa chủ yếu của APK là ở chỗ đó. Việc xóa bỏ sự khác biệt giữa hai hình thức sở hữu – sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân – cũng là một mục đích quan trọng của APK, tuy không phải là mục đích chủ yếu.

Xóa bỏ sự khác biệt giữa hai hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa, tiến tới một hình thức sở hữu duy nhất – sở hữu toàn dân – đó là một trong những vấn đề chủ yếu đặt ra trên con đường phát triển của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong bước quá độ từ chủ nghĩa xã hội lên chủ nghĩa cộng sản. Làm thế nào và bằng những hình thức gì để giải quyết vấn đề đó? Lâu nay, ở các nước xã hội chủ nghĩa, người ta đã làm nhiều việc và tìm tòi theo nhiều hướng (thành công cũng có mà thất bại cũng có) nhằm giải quyết vấn đề. Tuy nhiên về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn, cho đến nay chưa thể nói rằng đã có đầy đủ căn cứ để đưa ra kết luận cuối cùng và dứt khoát. Trong bối cảnh như vậy, “con đường của APK” là một sự tìm tòi đáng được quan tâm.

Vấn đề xóa bỏ sự khác biệt giữa hai hình thức sở hữu thực chất là vấn đề sở hữu tập thể: làm thế nào để đưa sở hữu tập thể xích gần sở hữu toàn dân, cuối cùng hòa nhập với sở hữu toàn dân? Thật sai lầm nếu cho rằng xóa bỏ sự khác biệt giữa hai hình thức sở hữu có nghĩa là xóa bỏ cả hai hình thức sở hữu tập thể và toàn dân để hình thành một hình thức thứ 3 nào đó. Hình thức này thực ra không tồn tại, trong thực tại cũng như trong ý niệm.

Nếu chế độ sở hữu toàn dân bao hàm một chủ sở hữu duy nhất (cũng là chủ sở hữu tập thể nhưng chỉ có một chủ duy nhất) là toàn dân, thì chế độ sở hữu tập thể lại bao hàm hàng nghìn, hàng vạn chủ sở hữu khác nhau, tuy vẫn là chủ sở hữu tập thể. Do tư liệu sản xuất mà họ sở hữu không giống nhau về số lượng và chất lượng, do đất đai, khí hậu và các điều kiện tự nhiên khác thuận lợi ít hay nhiều đối với sản xuất mà mỗi tập thể nhỏ có thu nhập nhiều ít khác nhau, từ đó có tình trạng: cùng một lượng lao động như nhau mà ở tập thể này thì được hưởng một lượng thu nhập cao hơn ở tập thể kia, có khi cao hơn mấy lần. Tính chất hạn chế của chế độ sở hữu tập thể, xét cho cùng là ở chỗ đó. Nếu chỉ nhìn trong phạm vi từng tập thể nhỏ thì nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội – hưởng theo lao động – có thể xem như đã được thực hiện. Nhưng nếu xem cả nước như một tập thể – và sự thật chính là như thế – thì xoay quanh nguyên tắc trên không ít câu hỏi được đặt ra. Đã là chủ nghĩa xã hội mà sao lao động ngang nhau lại hưởng thụ không ngang nhau? Cả xã hội xã hội chủ nghĩa là một tập thể lao động, là một hệ thống phân công và hợp tác lao động mà sao người lao động ở đồng bằng lại hưởng thụ cao hơn người lao động ở vùng đồi núi, sao người lao động trồng nho lại hưởng thụ cao hơn người lao động trồng lúa mì, sao người lao động trong nông trường quốc doanh lại được bảo đảm có mức thu nhập ổn định căn cứ vào định mức lao động, còn người lao động trong hợp tác xã thì thu nhập lên xuống thất thường, tùy theo mức thu hoạch từng mùa, từng vụ (giả định mọi người đều lao động ngang nhau)?

Những câu hỏi trên đây phải được giải đáp từng bước trong quá trình xây dựng và hoàn thiện xã hội xã hội chủ nghĩa. Ở Bun-ga-ri, từ lâu trước khi thành lập các APK, Đảng và Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp nhằm giảm bớt, trong chừng mực có thể, sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các hợp tác xã với nhau, cũng như giữa công nhân nông trường quốc doanh và xã viên hợp tác xã. Những biện pháp đó là:

  • Tập trung quỹ bảo hiểm mùa màng của các hợp tác xã lên trung ương để tập trung thống nhất phân phối. Đương nhiên chỉ hợp tác xã nào gặp thiên tai mới cần đến sự trợ giúp của quỹ này, nhưng đóng góp vào quỹ thì đó là công việc thường xuyên hằng năm của tất cả các hợp tác xã. Điều này có nghĩa là cả nước góp sức vào nâng đỡ những tập thể nhỏ gặp khó khăn trong sản xuất.
  • Tập trung quỹ bảo hiểm xã hội của các hợp tác xã lên trung ương để trung ương thống nhất phân phối. Chính là nhờ ở biện pháp này mà Bun-ga-ri có thể thực hiện được quy chế thống nhất với nông dân cả nước về hưu trí, nghỉ phép, nghỉ ốm, nghỉ đẻ, trợ cấp… Một người nông dân Bun-ga-ri, dù ở đồng bằng hay miền núi, dù hợp tác xã của mình giàu hay nghèo đều được hưởng mức lương giống nhau khi đến tuổi về hưu, đều được săn sóc thuốc thang như nhau khi ốm đau, sinh đẻ. Những loại thu nhập này những năm gần đây đã đạt ngang mức của khu vực quốc doanh. Như vậy chẳng những giữa các hợp tác xã với khu vực quốc doanh cũng không còn chênh lệch nữa. Về mặt này mà nói, hai hình thức sở hữu trên thực tế đã không còn khác biệt.

Đương nhiên thu nhập qua quỹ bảo hiểm xã hội chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, thậm chí rất nhỏ, trong tổng thu nhập của nông dân. Khoản thu nhập mà nông dân nhận được thông qua quỹ trả công lao động mới là phần chủ yếu. Chính tại điểm này, tính chất hạn chế của chế độ sở hữu tập thể mới biểu hiện đậm nét nhất. Cùng một định mức lao động (số lượng và chất lượng lao động ngang nhau), vậy mà ở hợp tác xã này thì được trả công 2-3 lê-va trong khi ở hợp tác xã khác lại trả 7-8 lê-va. Tình hình này nhiều khi xảy ra ngay trong khuôn khổ một APK. Để xóa bỏ tình trạng chênh lệch nêu trên, người ta không thể dùng biện pháp hạ thấp thu nhập của hợp tác xã sau để bù cho hợp tác xã trước. Phải làm sao nâng mức thu nhập của hợp tác xã nghèo nhất lên ngang mức thu nhập của các hợp tác xã giàu nhất, và trên cơ sở đó tạo ra sự đồng đều trong phạm vi cả nước theo nguyên tắc lao động ngang nhau thì tiền lương ngang nhau. Những biện pháp đầu tiên mà các APK áp dụng theo hướng đó là: sử dụng quỹ tích lũy tập trung của APK để hỗ trợ cho các đơn vị này về mặt thu nhập. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng tác động theo hướng đó thông qua việc phân phối vốn đầu tư tập trung của Nhà nước, thông qua việc cung cấp thiết bị, chính sách tài chính và các chính sách khác. Dù cho các biện pháp này (và nhiều biện pháp khác nữa) có hiệu lực đến mức nào thì việc nâng cao trình độ kỹ thuật, trình độ phát triển lực lượng sản xuất và mức thu nhập của tất cả các hợp tác xã và nông trường lên ngang trình độ tiên tiến nhất chắc không phải là một công việc dễ dàng, chỉ làm trong mấy năm mà xong. Vì vậy, hiệu quả của con đường APK trong việc xóa bỏ sự khác biệt giữa hai hình thức sở hữu không chỉ qua một thời gian ngắn mà phán xét được. Nói cho đúng thì hiệu quả này phụ thuộc vào chính tác dụng của APK trong việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở công nghiệp, cũng tức là phụ thuộc vào sức sống của bản thân APK.

Trong khi xây dựng và không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, Đảng và Nhà nước Bun-ga-ri vẫn dành một vị trí thích đáng cho kinh tế phụ gia đình của nông dân xã viên và công nhân nông trường quốc doanh. Ngay từ những năm đầu sau giải phóng, Đảng đã xác định rõ quan điểm đối với kinh tế phụ: chủ nghĩa xã hội không sợ kinh tế phụ, không tiêu diệt kinh tế phụ, mà có đủ sức mạnh để tận dụng khả năng phong phú và đa dạng của kinh tế phụ. Điều quan trọng là phải có những quy chế thích hợp để đưa kinh tế phụ phát triển đúng hướng, không gây ảnh hưởng xấu đối với kinh tế tập thể.

Mỗi hộ nông dân xã viên cũng như công nhân nông trường quốc doanh tùy điều kiện đất đai của từng vùng, được nhận từ 0,3 đến 0,5 héc ta cho kinh tế phụ. Đó là một diện tích khá lớn. Trong một số ngành như nuôi cừu, dê, trồng rau, trồng hoa, cây ăn quả, kinh tế phụ chiếm tỷ lệ khá cao. Sở dĩ như vậy là vì chính các ngành này là nơi mà kinh tế phụ có nhiều thuận lợi để phát huy khả năng tiềm tàng của nó. Một vài giờ nhàn rỗi trong ngày, một vài người lao động phụ trong gia đình, một chút thức ăn thừa hàng ngày, một mảnh vườn nhỏ quanh nhà, một vài mảnh đồng cỏ nhỏ bé và hẻo lánh… Tất cả những cái “vặt vãnh” đó, kinh tế tập thể không thể khai thác được, nhưng nếu cho phép các gia đình khai thác, tạo điều kiện cho họ khai thác thì gió góp thành bão – có thể sáng tạo ra một khối lượng của cải to lớn. Không phải chỉ trong những năm còn nghèo nàn, lạc hậu mà ngay đến tận bây giờ, khi máy móc đã được sử dụng phổ biến trong nông nghiệp, khi hệ thống chăn nuôi công nghiệp với những chuồng trại khổng lồ đã và đang được xây dựng khắp nước, Đảng và Nhà nước Bun-ga-ri vẫn rất quan tâm phát huy khả năng của kinh tế phụ gia đình, đặc biệt là trong lĩnh vực chăn nuôi.

Ở Bun-ga-ri người ta cũng đề phòng khuynh hướng chạy theo kinh tế phụ, dồn quá nhiều lao động cho kinh tế phụ mà xao nhãng kinh tế tập thể. Điều lệ hợp tác xã quy định mỗi xã viên, hàng năm phải làm cho hợp tác xã một số lượng ngày công tối thiểu là bao nhiêu, trong đó có một số ngày nhất định phải làm trong những lúc thời vụ khẩn trương. Kèm theo quy định này là một loạt quy định về thưởng phạt về mặt quyền lợi vật chất. Với những quy định như vậy, nói chung ở Bun-ga-ri không có hiện tượng kinh tế phụ gia đình lấn át kinh tế tập thể. Trong báo cáo đọc trước hội nghị trung ương tháng 3 năm 1976, đồng chí Tô-đo Gip-cốp nhấn mạnh: “phải tránh mọi thái độ coi nhẹ chăn nuôi trong kinh tế phụ. Cần phải có những biện pháp để giúp cho chăn nuôi trong kinh tế phụ phát triển mạnh hơn nữa, vì chính nó vẫn chứa đựng một khả năng tiềm tàng rất lớn trong việc tăng sản lượng chăn nuôi”. Nhìn vào mấy con số sau đây, ta sẽ hiểu được cái cơ sở thực tế của chủ trương đó. Năm 1975, số đầu gia súc trong kinh tế phụ so với số đầu gia súc trong kinh tế tập thể và quốc doanh cộng lại là (nghìn con): gia súc lớn: 410 so với 1.315, lợn: 1.187 so với 2.702, cừu: 3.978 so với 6.036, dê: 317 so với 3,4, ngựa: 53 so với 80,3. Cũng với sự so sánh như trên thì sản lượng trứng gà là: 836 triệu quả so với 981 triệu quả.

Nói cho đúng thì chính kinh tế tập thể theo đà lớn mạnh của nó, ngày càng xâm nhập vào kinh tế phụ bằng sự trợ giúp của nó. Đối với chăn nuôi thì cung cấp con giống, thức ăn gia súc đã chế biến, dịch vụ thú y…. Đối với trồng trọt thì chẳng những cung cấp hạt giống, cây giống, mà hợp tác xã còn đem cả máy của tập thể ra cày, bừa, gieo hạt (làm không công) cho các thửa ruộng kinh tế phụ. Nếu là thứ cây cần phải thu hoạch bằng máy (ngô chẳng hạn) thì hợp tác xã cũng đảm nhiệm luôn cả khâu thu hoạch. Tóm lại là tất cả các khâu canh tác đã có thể xử lý bằng máy và kỹ thuật hiện đại thì kinh tế tập thể đều đứng ra “trợ giúp” kinh tế phụ, không bỏ mặc kinh tế phụ tự mình xoay xở bằng lao động thủ công. Rút cục kinh tế phụ hầu như chỉ còn lại công việc chăm sóc cây trồng và gia súc trên cơ sở tận dụng lao động của mình. Nếu trước đây, trong buổi đầu tư xây dựng hợp tác xã, kinh tế phụ về thực chất là tàn dư của kinh tế cá thể – nó cần thiết đối với người nông dân đã từng gắn bó lâu đời với kinh tế cá thể và nó cũng vượt ra ngoài tầm tay của kinh tế tập thể – thì ngày nay, nó được “tập thể hóa” và hiện đại hóa trên những phần việc chủ yếu nhất. Điều đáng chú ý là: việc tập thể hóa này đã được thực hiện không phải bằng cách hạn chế, chèn lấn kinh tế phụ, mà trái lại bằng cách phát huy mọi khả năng tiềm tàng của nó, khuyến khích nó phát triển sản xuất đúng hướng và trợ giúp nó bằng mọi phương tiện có thể của kinh tế tập thể.

Cách mạng quan hệ sản xuất mà chúng ta vừa nghiên cứu, thực ra không tách rời cách mạng kỹ thuật, cũng giống như quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất – hai mặt hữu cơ đó của nền sản xuất xã hội – không tách rời nhau. Mỗi bước đi lên của cách mạng quan hệ sản xuất đều gắn liền với tiến trình của cách mạng kỹ thuật.

Cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp ở Bun-ga-ri cũng như ở bất cứ nước nào khác, đều bao gồm nội dung cơ bản là: cơ giới hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa và áp dụng những thành tựu hiện đại của sinh vật học vào nông nghiệp. Cái đặc thù, cái sáng tạo của mỗi nước chỉ là ở chỗ bố trí một cách thông minh bước đi của từng mặt cách mạng đó, phối hợp chúng một cách khôn khéo trong một tiến trình phù hợp với những điều kiện cụ thể của nước mình sao cho sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển thuận lợi nhất, nhanh nhất.

Đối với Bun-ga-ri, một nước có đất đai canh tác tương đối nhiều thì con đường có lợi nhất là bắt đầu bằng cách mạng kỹ thuật từ khâu cơ giới hóa, trước hết là cơ giới hóa những vùng trồng lúa mì – cái bàn đạp để chinh phục tiếp các lĩnh vực khác. Mục tiêu của cơ giới hóa trước hết là nhằm vào khâu làm đất – khâu lao động nặng nhọc nhất và cũng là khâu có tác dụng quyết định nhất trong việc mở rộng diện tích gieo trồng – sau đó mới đến khâu thu hoạch, chăm sóc, vận tải, chế biến nông sản.

Máy móc (không kể máy kéo) sử dụng trong nông nghiệp càng nhiều thì nhu cầu về điện càng lớn. Đến một lúc nào đó thì chính điện khí hóa trở thành điều kiện tiền đề của cơ giới hóa.

Ở những nước như Bun-ga-ri, cây trồng cạn là chủ yếu, nước chưa phải là điều kiện đầu tiên của sản xuất nông nghiệp. Thủy lợi, do đó cũng không phải là “biện pháp hàng đầu” của sản xuất. Người ta dựa vào nguồn nước trời là chủ yếu. Nhưng một khi máy móc và những phương tiện kỹ thuật hiện đại khác được đưa vào đất đai với “mật độ” ngày càng cao, buộc đất đai phải tham gia vào quá trình sản xuất, với cường độ cũng ngày càng cao thì cái guồng máy tuần hoàn của tự nhiên tỏ ra không đủ nữa. Trên mỗi đơn vị diện tích gieo trồng, người ta cũng không thỏa mãn với một số lượng sản phẩm như cũ nữa, mà đòi hỏi cây trồng phải cho năng suất cao hơn. Tất cả những tình hình đó đòi hỏi con người phải tác động ngày càng tích cực hơn vào khâu cung cấp nước cho cây trồng, không những cung cấp một lược nước nhiều hơn trước, mà kỹ thuật tưới nước cũng phải ngày càng hợp lý hơn, đáp ứng nhu cầu sinh lý của cây trồng trong mỗi giai đoạn phát triển của nó. Thủy lợi hóa, với tính cách là một đòn bẩy mạnh mẽ của thâm canh, ngày càng trở nên quan trọng.

Trong những năm đầu phát triển nông nghiệp ở Bun-ga-ri, việc tăng sản lượng nông phẩm chủ yếu dựa vào mở rộng diện tích gieo trồng mà đòn bẩy quan trọng là cơ giới hóa. Đi theo hướng này, một mặt là do điều kiện thực tế cho phép: đất đai còn đủ để khai thác, nước trời còn đủ cho cây trồng, máy kéo thì có thể dựa vào nhập khẩu (từ Liên Xô). Mặt khác phải thừa nhận rằng lúc đó, dù có muốn hướng mạnh vào thâm canh – con đường đem lại hiệu quả cao nhất, cũng là con đường cơ bản để phát triển sản xuất nông nghiệp – thì cũng không có khả năng giải quyết vấn đề phân bón. Lúc này Bun-ga-ri chưa sản xuất được phân bón hóa học. Đây là sản phẩm của một ngành công nghiệp có quy trình công nghệ phức tạp, vốn đầu tư rất lớn, trong nước lại không có nguồn nguyên liệu (dầu lửa). Số phân bón ít ỏi có được là hoàn toàn dựa vào nhập khẩu. Một yếu tố quan trọng khác của thâm canh là thủy lợi cũng không dễ gì xây dựng trong thời gian đầu.

Tuy nhiên, việc mở rộng diện tích gieo trồng cũng sớm bộc lộ giới hạn của nó. Việc khai thác độ phì của đất cũng vậy. Không một sức mạnh nào vượt qua được tính cưỡng chế của quy luật tự nhiên, theo đó, con người rút ra từ đất một trọng lượng chất khô là bao nhiêu thì cũng phải hoàn trả lại cho đất một lượng chất dinh dưỡng tương ứng như thế. Nếu không sẽ sớm nhận được sự trừng phạt của tự nhiên vì đã phá hoại sự tuần hoàn vật chất giữa người và đất. Như vậy sản lượng nông nghiệp mà tăng nhanh bao nhiêu thì nhu cầu đi vào thâm canh, đặc biệt nhu cầu phân bón, trở nên cấp bách bấy nhiêu. Nếu chờ đến lúc sản lượng nông nghiệp bắt đầu con đường đi xuống cũng tức là sự tuần hoàn giữa người và đất đã bị phá hoại, thậm chí đến lúc độ phì của đất đã bị vắt kiệt, mới đặt ra vấn đề phân bón thì quả là quá muộn.

Chính vì nhận thức được sự tất yếu phải chuyển nhanh sang con đường thâm canh mà Đảng và Nhà nước Bun-ga-ri, trong kế hoạch công nghiệp hóa đất nước, đã ra sức phát triển ngành công nghiệp hóa học chế tạo phân bón. Nhờ đó từ đầu những năm 60, công việc hóa học hóa nông nghiệp đã được thực hiện với những bước nhảy vọt liên tiếp. Năng suất cây trồng theo đó cũng tăng lên nhanh chóng và chỉ trong mấy năm đã đạt đến mức tiên tiến của thế giới.

Những thành tựu về cơ giới hóa và thâm canh kể trên sẽ không thể đạt được nếu không kết hợp chặt chẽ với việc áp dụng những thành tựu của sinh vật học vào sản xuất nông nghiệp. Để sử dụng máy móc một cách rộng rãi và có hiệu quả, người ta đã phải tạo ra những giống cây mới thích hợp với tính năng của máy móc (những giống cà chua chín đều cùng một thời gian, những giống cây ăn quả thấp lùn…). Để thâm canh người ta đã phải tạo ra những giống cây chịu phân bón, cho năng suất cao, những giống gia súc thích ứng với lối chăn nuôi công nghiệp cùng nhiều đặc tính khác nữa. Nói một cách chung nhất, nếu máy móc và kỹ thuật hiện đại phải uốn mình để thích nghi tối đa với những yêu cầu sinh lý của cây trồng và gia súc, thì ngược trở lại trong rất nhiều trường hợp, cây trồng và gia súc cũng phải được cải tạo về mặt sinh lý  để thích ứng với những tính năng, hạn chế của máy móc và với những điều kiện mới của kỹ thuật hiện đại.

Như trên ta thấy, không biện pháp kỹ thuật nào có thể đơn độc phát huy tác dụng, càng không thể đơn độc tạo ra cuộc cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp. Nhưng, để thực hiện đồng bộ những biện pháp ấy thì điều kiện cơ bản phải có một trình độ phát triển nhất định của nền đại công nghiệp, chủ yếu của công nghiệp nặng. Không có một trình độ phát triển nhất định của nền đại công nghiệp, chủ yếu công nghiệp nặng, thì không thể nói đến cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp, không thể nói đến chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn trong nông nghiệp. (Hợp tác hóa có thể tạo ra nền sở hữu lớn xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp làm cơ sở cho việc xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhưng chỉ hợp tác hóa thì không thể tạo ra nền sản xuất lớn được). Nếu trên kia chúng ta đã có dịp nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp với tính cách là cơ sở để phát triển công nghiệp, thì giờ đây, đến lượt phải nhấn mạnh vai trò của công nghiệp – để hiện đại hóa nông nghiệp. Khi nói cái nọ là cơ sở của cái kia, sự phát triển của cái nọ phụ thuộc vào sự phát triển của cái kia thì phải chăng có cái gì là không rõ ràng, thậm chí là một vòng luẩn quẩn không có lối thoát? Hoàn toàn không phải như vậy. Nói nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp có nghĩa là nói: trong bước đầu phát triển của nó, công nghiệp phụ thuộc vào trình độ phát triển nhất định của nông nghiệp – một trình độ phát triển cho phép nông nghiệp đủ sức cung cấp cho công nghiệp khối lượng cần thiết sản phẩm thặng dư của nó gồm lương thực, thực phẩm, nguyên liệu và nông sản xuất khẩu. Một trình độ phát triển như thế giả định năng suất của lao động nông nghiệp phải được nâng cao đến mức không phải toàn bộ lao động xã hội mà chỉ một bộ phận thôi đã đủ để nuôi sống toàn bộ xã hội, còn lại bộ phận kia thì có thể “rảnh tay” tiến hành các hoạt động công nghiệp, mở mang công nghiệp. Nói về thời điểm thì điều kiện tiền đề này phải được tạo ra ngay khi bắt đầu xây dựng công nghiệp, bởi chính vì điều kiện đó là điểm xuất phát cho sự phát triển công nghiệp, là khởi điểm cho sự chuyển mình của xã hội nông nghiệp.

Chỉ rất lâu sau khi rời khỏi điểm xuất phát đó thì công nghiệp mới đủ sức trở thành cơ sở để hiện đại hóa nông nghiệp. Không phải bất cứ tác động nào của công nghiệp đối với nông nghiệp (tác động này bao giờ cũng có, kể từ thời nguyên thủy) cũng làm cho công nghiệp trở thành cái gọi là cơ sở để hiện đại hóa nông nghiệp, bởi lẽ bản thân khái niệm hiện đại hóa nông nghiệp đã mang một nội dung xác định như chúng ta đã biết. Chỉ nhìn qua mấy con số sau đây ta có thể hình dung được những phương tiện kỹ thuật mà công việc hiện đại hóa nông nghiệp đòi hỏi ở công nghiệp to lớn biết chừng nào. Để cơ giới hóa việc canh tác hơn 5 triệu héc ta đất, Bun-ga-ri đã phải dùng tới hơn 10 vạn máy kéo và hơn 2 vạn máy liên hợp, với tổng công suất trên 6 triệu sức ngựa. Nếu kể đến sự khấu hao thiết bị, với tuổi thọ trung bình của các máy móc là 6 năm, thì trong 20 năm qua, nền nông nghiệp Bun-ga-ri đã sử dụng gấp 3 lần số máy móc kể trên – khoảng 30 vạn chiếc máy kéo và 6 vạn chiếc máy liên hợp. Nhưng không phải chỉ có thế. Để hiện đại hóa nông nghiệp, mỗi năm Bun-ga-ri sử dụng trung bình trên 1 triệu tấn xi măng (những năm gần đây con số này lên tới gần 2 triệu), gần 10 tỷ kw/h điện, hơn 2 triệu tấn phân bón các loại cùng vô vàn thứ khác nữa.

Tất cả những phương tiện kỹ thuật đó chỉ có nền đại công nghiệp đã phát triển đến một trình độ nhất định mới có khả năng cung cấp được. Ở Bun-ga-ri tình hình đó xuất hiện vào đầu những năm 60, khi công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, về cơ bản đã giành được thắng lợi. Cũng tính từ thời điểm đó, cuộc cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp đã được thực hiện đồng bộ, với những bước nhảy liên tiếp. Kết quả là chỉ trong một thời gian ngắn đã đưa nông nghiệp tiến kịp trình độ tiên tiến của thế giới.

Trở lại vấn đề quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, cần nhấn mạnh rằng: không phải chỉ vạch ra mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và nội dung sự phụ thuộc đó là đủ. Trong bố trí chiến lược phát triển kinh tế, vấn đề thời điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đối với một nước nông nghiệp lạc hậu, cái khó nhất lúc đầu là tạo ra cho được một trình độ phát triển nào đó của nông nghiệp, khiến cho nông nghiệp đủ sức trở thành cơ sở để phát triển công nghiệp. Nếu lúc này mà không tập trung mọi sức lực, kể cả sức lực của nền công nghiệp mới phôi thai, vào việc tạo ra cái bàn đạp, cái điểm tựa đó, nếu vội phân tán sức lực vào những mục tiêu to lớn của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa (những mục tiêu này bao giờ cũng có sức hấp dẫn rất lớn) thì rút cục, công nghiệp hóa chẳng những không thể phát triển nhanh được mà ngay cuộc sống tối thiểu của những người lao động cũng không thể tránh khỏi tình trạng căng thẳng. Một chiếc máy bay phải đạt đến tốc độ nhất định thì mới cất cánh được. Một nền kinh tế cũng vậy. Bỏ qua cái quy luật tự nhiên này thì “nhanh sẽ hóa ra chậm”.

Đối với một xã hội nông nghiệp muốn chuyển mình thì phát triển mạnh nông nghiệp không phải chỉ có cơm no áo ấm, mà quan trọng hơn, để tạo ra cái cơ sở đầu tiên cho công nghiệp phát triển. Nói một cách vắn tắt, làm nông nghiệp chính là để làm công nghiệp, để công nghiệp hóa. Bởi vì chỉ có công nghiệp, tức đại công nghiệp mới là cái cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội, chỉ có công nghiệp mới chuyển được từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mới hiện đại hóa được nông nghiệp, mới là nền tảng của một cuộc sống sung túc và phong phú về mọi mặt. Nếu trong bố trí chiến lược kinh tế mà xao nhãng một chút nào mục tiêu cơ bản ấy, không kịp thời tận dụng mọi cơ hội, mọi điều kiện do nông nghiệp tạo ra để mau chóng phát triển công nghiệp; nếu cứ dẫm chân tại chỗ ở chủ trương phát triển nông nghiệp thì rút cục, bản thân nông nghiệp cũng sẽ không có được những phương tiện kỹ thuật cần thiết để phát triển, để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nói gì đến công nghiệp hóa và hiện đại hóa toàn bộ nền kinh tế.

Để chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì cách mạng quan hệ sản xuất với cách mạng kỹ thuật đóng vai trò quyết định. Song, cách mạng tư tưởng và văn hóa cũng giữ vai trò không kém phần quan trọng. Nói đến cách mạng quan hệ sản xuất tức là nói đến việc cải tạo nền sản xuất nhỏ, cá thể, tạo ra nền sở hữu lớn của tập thể và tổ chức cái tập thể đó tiến hành lao động theo một phương thức mới, có kế hoạch, có khoa học. Nói đến cách mạng kỹ thuật có nghĩa là đưa vào sản xuất nông nghiệp hàng vạn máy móc, thiết bị mới, là áp dụng hàng loạt biện pháp khoa học trong các quá trình sản xuất. Không có những con người mới, với tư tưởng mới, trí thức mới, văn hóa mới, thì làm sao đảm đương được những nhiệm vụ đó? Không có những con người mới có đủ tri thức khoa học thì dù có lập ra những xí nghiệp nông nghiệp lớn rất hiện đại, dù có đưa vào nông nghiệp bao nhiêu máy móc, thiết bị tuyệt vời cũng không thể nào làm cho những thành quả đó của kỹ thuật hiện đại phát huy được tác dụng. Đồng chí Tô-đo Gip-cốp đã chỉ ra rất đúng: “Đặc điểm của sản xuất công nghiệp là sử dụng máy móc, là phương pháp lao động dây chuyền và sản xuất theo nhịp điệu. Nếu đưa quy trình kỹ thuật đó vào nông nghiệp, thì đặc điểm của sản xuất nông nghiệp cũng phải là như thế, thậm chí có thể nói đặc điểm đó là cái cơ bản nhất của nó. Như vậy nhất thiết phải hình thành một tổ chức sản xuất mới, cốt lõi là sử dụng máy móc, là bố trí chúng hợp lý và khai thác chúng với hiệu quả cao nhất. Nhưng không thể cứ để cho con người bị biến thành vật phụ thuộc của máy móc, phải làm sao để con người vẫn là trung tâm của sản xuất, nó điều khiển được nền sản xuất đó… Như vậy, chúng ta phải cải tổ và hoàn thiện công tác giáo dục và đào tạo trên một cơ sở vững chắc. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể ngay từ bây giờ xây dựng được những mẫu người cần thiết cho xã hội chúng ta, những người lao động chủ nghĩa xã hội mà mỗi thế hệ lại có chất lượng cao hơn, phù hợp với yêu cầu của hiện tại và tương lai…”.

Do nhận thức như vậy, Đảng và Nhà nước Bun-ga-ri đã hết sức chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn của những người lao động nông nghiệp và trình độ văn hóa chung ở nông thôn. Cái bộ phận lạc hậu nhất, dốt nát nhất nhưng cũng đông đúc nhất của xã hội, đã trải qua một cuộc cách mạng vĩ đại cùng với nền sản xuất của họ. Có thể nói, nông dân Bun-ga-ri đã được hiện đại hóa cùng với nền sản xuất của họ. Lao động nông nghiệp phần lớn đã mang tính chất lao động công nghiệp. Tất cả các tổ sản xuất, các đội sản xuất đều có cán bộ kỹ thuật trung cấp hoặc cao cấp phụ trách. Mọi lao động ở nông thôn đều có trình độ ít nhất là trung học. Sách, báo, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình… trở thành công cụ phổ biến trong đời sống văn hóa. Trong nông thôn Bun-ga-ri đã và đang diễn ra một cách triệt để quá trình cách mạng mà Mác đã tiên đoán: “Trong lịch sử nông nghiệp, tác động của công nghiệp lớn có tính chất cách mạng hơn bất cứ nơi nào khác, hiểu theo nghĩa là công nghiệp lớn làm cho không còn nông dân nữa, tức là không còn cái thành trì của xã hội cũ nữa”.

Cuối những năm 60, ngay trong Đảng Cộng sản Bun-ga-ri cũng có nhiều người do dự về việc mau chóng mở rộng quy mô các xí nghiệp nông nghiệp và thành lập APK. Quả thật trên thế giới đã từng có những sự thử nghiệm theo hướng đó bị thất bại. Nhưng, sau khi cân nhắc kỹ những yêu cầu và khả năng hiện thực, Trung ương Đảng cho rằng đã có đủ những điều kiện cơ bản – điều kiện kỹ thuật và điều kiện con người – để mau chóng tổ chức lại sản xuất trên quy mô lớn. Chủ trương đó đã thu được thắng lợi rực rỡ. Đạt được như vậy, theo đánh giá của đồng chí Tô-đo Gip-cốp, trong chừng mực rất lớn nhờ đã trang bị cho nông nghiệp một đội ngũ cán bộ vững vàng trên các mặt trận, và trang bị cho những người lao động nông nghiệp những tri thức cần thiết trên vị trí làm việc của họ. “Đó chính là sức mạnh quyết định, là tiền đề quyết định, bảo đảm cho sự hoạt động bình thường và có hiệu quả nhất của toàn bộ hệ thống quản lý xã hội”.

“Ngày nay khoa học và tiến bộ kỹ thuật là nét tiêu biểu nhất của nền nông nghiệp Bun-ga-ri”. Chỉ cần so sánh hình ảnh đó với chiếc cày gỗ cách đây hơn 30 năm, chúng ta cũng thấy được sự chuyển biến cách mạng trong nông nghiệp Bun-ga-ri là sâu sắc, kì diệu biết chừng nào. Sự thành công, tự nó đã nói lên rất nhiều về Đảng lãnh đạo và về đường lối lãnh đạo cuộc cách mạng đó.

Trên thế giới chúng ta đang sống, mỗi năm có hàng triệu người chết đói và trên 500 triệu người thiếu đói. Vấn đề nông nghiệp nổi lên như là một trong những mối lo lớn nhất của loài người. Nói cho đúng thì tai họa trên đây chỉ dành riêng cho những nước nông nghiệp lạc hậu. Làm thế nào để cho mỗi con người không còn bị giày vò bởi cái nhu cầu sơ đẳng kia – lương thực? Hơn thế nữa, làm thế nào để thoát ra khỏi tình cảnh nông nghiệp lạc hậu, vươn tới ánh sáng của văn minh công nghiệp? Trong những câu hỏi chung về số phận của cả dân tộc, còn có những câu hỏi riêng về số phận của một lớp người: lớp người nằm trong tay cái ngành sản xuất nuôi sống cả xã hội, nhưng lại là lớp người nghèo khổ nhất, lạc hậu nhất và dốt nát nhất của xã hội. Tất cả những câu hỏi trên đây từ chỉ chỉ là ước mơ, đã mau chóng được đặt vào chương trình nghị sự, vào cương lĩnh hành động của nhiều dân tộc.

Câu trả lời, như lịch sử hơn nửa thế kỷ qua đã chứng minh, chỉ có thể tìm thấy ở con đường xã hội chủ nghĩa. Thành công của Bun-ga-ri là một trong những chứng minh đó, và có thể nói, là một trong những chứng minh rực rỡ nhất./.