Nắm chắc quy luật của cách mạng Việt Nam vững bước tiến lên (Nhân đọc bài Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành lấy những thắng lợi mới của đồng chí Lê Duẩn)

Trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta để định ra đường lối cách mạng đúng đắn, đó là bí quyết thành công của Đảng ta suốt 40 năm lịch sử vẻ vang của Đảng. Đó cũng là tinh thần toát ra từ toàn bộ bài viết của đồng chí Lê Duẩn nhân kỷ niệm Đảng ta 40 tuổi.

Đối tượng nghiên cứu của bài viết rất rộng lớn: toàn bộ cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn – giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Kinh nghiệm và kết luận rút ra từ thực tiễn cách mạng cũng rất phong phú, từ việc định ra đường lối chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến phương pháp cách mạng thích hợp, gồm cả những phương pháp đã đưa cách mạng miền Nam đến thắng lợi rực rỡ như ngày nay, vượt qua những bước hiểm nghèo tưởng chừng như không thể vượt qua nổi; từ những đặc điểm và quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đến đường lối phát triển trong những bước đi ban đầu và phương thức quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa; từ những nguyên tắc xây dựng Đảng Lênin-nit đến việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới, v.v… Trong khuôn khổ của bài báo này, chúng tôi chỉ hạn chế trong việc tìm hiểu phần thứ hai của bài viết – phần nói về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc – mà nội dung chủ yếu là các vấn đề kinh tế.

Về phương pháp luận

Mười năm đã qua kể từ khi Đại hội III của Đảng định ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Qua thực tiễn cách mạng 10 năm đó, đường lối của Đảng được khẳng định là đúng. Mặt khác, thực tiễn cũng đã làm bộc lộ rõ thêm nhiều đặc điểm và quy luật của cách mạng Việt Nam mà chúng ta phải tính đến để làm cho đường lối của Đảng hoàn chỉnh thêm, cụ thể thêm. Phân tích một cách sâu sắc những đặc điểm và quy luật của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và của thực tiễn cách mạng nước ta, trên cơ sở đó, cụ thể hóa thêm đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng chí Lê Duẩn đã cung cấp cho toàn Đảng, có thể nói, một lý luận hoàn chỉnh về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, hay đúng hơn: những nét chủ yếu nhất của lý luận đó. Chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở nước ta, nội dung và phương hướng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta (hay là nội dung và phương hướng của ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kĩ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa), nhiệm vụ kinh tế cơ bản và cơ cấu kinh tế hợp lý nhất trong bước đi ban đầu của nước ta, phương thức quản lý kinh tế ở nước ta, những vấn đề then chốt đó của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặc dầu trong khuôn khổ rất hạn chế của bài viết, đều được soi sáng và giải đáp với đầy đủ căn cứ khoa học xác đáng và trong một hệ thống lô-gích chặt chẽ. Làm nền móng cho những luận đề này là một sự nhận thức hết sức sâu sắc về đặc điểm của nước ta trong thời kì quá độ – đặc điểm “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đặc điểm này nói lên cái gì? Nó quy định phương hướng, phương pháp, bước đi của ta như thế nào? Đó là điều mà không phải bất cứ lúc nào và trên bất cứ vấn đề gì, mọi người đều nhìn nhận được một cách sáng sủa. Nhưng, ở đồng chí Lê Duẩn, điều này toát ra từ mọi sự phân tích và kết luận. Lấy thí dụ về vấn đề đấu tranh giai cấp chẳng hạn.

Do đặc điểm của nước ta là “từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” mà nội dung của đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở nước ta không thể rập khuôn theo các nước khác được. Đồng chí Lê Duẩn viết: “Ở các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, việc xóa bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và mọi hình thức bóc lột khác, việc ngăn chặn khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa của sản xuất nhỏ, việc đập tan mọi âm mưu ngóc đầu dậy của các phần tử thù địch, bảo đảm trật tự an ninh, tăng cường quốc phòng để chống ngoại xâm, đương nhiên là một cuộc chiến tranh giai cấp lâu dài, phức tạp, là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của chuyên chính vô sản … Song, nội dung của đấu tranh giai cấp không đóng khung ở đó, bởi vì muốn chiến thắng triệt để giai cấp tư sản và các lực lượng phản động khác, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì chỉ riêng việc trấn áp các giai cấp bóc lột cùng mọi lực lượng phản cách mạng khác chưa đủ. Đặc biệt trong tình hình miền Bắc nước ta, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế, thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa vốn rất nhỏ bé, chỉ riêng việc tước đoạt các giai cấp bóc lột chưa thể tạo ra được cơ sở vật chất và kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, chỉ riêng việc trấn áp các lực lượng phản cách mạng chưa đủ để đảm bảo thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội”. Điều đó dẫn chúng ta đến kết luận tất yếu sau đây:

“Vấn đề cơ bản ở đây là phải cải tạo sản xuất nhỏ, cá thể thành sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa, là xây dựng mới gần như toàn bộ cơ sở vật chất và kĩ thuật, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng của xã hội chủ nghĩa thông qua việc thực hiện đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kĩ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa. Bằng cách đó, chủ yếu bằng cách đó, mới ngăn chặn được sản xuất nhỏ tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản, mới vĩnh viễn xóa bỏ được những điều kiện kinh tế – xã hội làm nảy sinh và phục hồi chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, mới đảm bảo được thắng lợi hoàn toàn và triệt để cho chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy “nắm vững chuyên chính vô sản để tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng kĩ thuật là then chốt, là nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta”.

Qua luận điểm trên đây, ta thấy tình hình kinh tế – xã hội của miền Bắc nước ta đã được nhận thức một cách sâu sắc biết nhường nào! Lấy thực tế đó làm căn cứ, người cách mạng có thể đi đến những kết luận sáng tạo và sáng suốt biết chừng nào!

Mặt khác, cũng qua luận điểm trên đây, ta thấy toát lên những tư tưởng bất hủ của Lênin vĩ đại:

“Chỉ sau khi chính quyền Nhà nước vô sản đã đập tan được hẳn mọi sự phản kháng của bọn bóc lột, đã bảo đảm được địa vị hoàn toàn vững chắc của nhiều và được tất cả mọi người phục tùng, đã tổ chức lại được toàn bộ nền công nghiệp trên cơ sở sản xuất tập thể đại quy mô và kĩ thuật hiện đại (thiết lập trên cơ sở điện khí hóa toàn bộ nền công nghiệp), thì khi đó mới có thể xem là chủ nghĩa xã hội đã thắng hẳn chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa xã hội đã được củng cố hẳn”.

“Kẻ thù trong nước đứng vững được là nhờ dựa vào nền kinh tế nhỏ; muốn diệt trừ chúng, phải có một biện pháp, tức là chuyển nền kinh tế toàn quốc, gồm cả nông nghiệp lên cơ sở kĩ thuật mới, lên cơ sở kĩ thuật hiện đại, quy mô lớn. Chỉ có điện khí mới là cơ sở như vậy”.

“Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hóa toàn quốc…chỉ khi nào nước ta đã điện khí hóa, chỉ khi nào công nghiệp, nông nghiệp, vận tải đã đứng vững trên cơ sở kĩ thuật công nghiệp hiện đại quy mô lớn, chỉ lúc đó, chúng ta mới có thể đạt được thắng lợi cuối cùng”.

Thấm nhuần tư tưởng của Lênin, đồng thời dựa trên một nhận thức hết sức sâu sắc về  tình hình kinh tế – xã hội của nước ta – một nước từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội không quan giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa – luận điểm trên đây của đồng chí Lê Duẩn là một tấm gương sáng ngời về phương pháp luận Mácxít – Lêninnít và tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo trong công tác lý luận.

Có thể kể ra đây nhiều tấm gương như thế, song, để tránh trùng lắp với những đoạn bên dưới, chúng tôi hạn chế ở một thí dụ ở trên để chứng minh cho kết luận nói rằng: Bài viết của đồng chí Lê Duẩn trước tiên là một bài học về phương pháp luận Mácxít – Lêninnít: kết hợp chặt chẽ những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin với thực tế Việt Nam, vận dụng những nguyên lý phổ biến đó vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam một cách độc lập, tự chủ, sáng tạo.

Về chuyên chính vô sản

Giai cấp vô sản muốn bắt tay vào việc cải tạo xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa thì trước tiên phải giành được chính quyền, trước tiên phải thiết lập được chuyên chính vô sản.

Ở nước ta, vì công nông đã đóng vai trò quyết định vào đội tiên phong của giai cấp công nhân đã được quyền lãnh đạo ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cho nên “sự kết thúc thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng có nghĩa là sự mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa” (Lê Duẩn). Chính quyền dân chủ nhân dân – thành quả của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân – liền chuyển sang làm nhiệm vụ của chuyên chính vô sản: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đương nhiên, không thể nói đến xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước lạc hậu về kinh tế, nếu không có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản đã thắng lợi ở một hay nhiều nước có nền kinh tế phát triển. Về điểm này, tình hình rõ ràng là thuận lợi: “Trong thời đại ngày nay, khi chủ nghĩa tư bản đã tỏ ra ngày càng thối nát và tan rã, khi chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực, nhất là đã trở thành hệ thống thế giới, nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người, thì vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội được đặt ra như một tất yếu lịch sử chẳng những đối với các nước tư bản phát triển mà ngay cả đối với các nước lạc hậu về kinh tế đã giành được độc lập dân tộc” (Lê Duẩn).

Khẳng định tính tất yếu lịch sử của chuyên chính vô sản ở một nước lạc hậu về kinh tế như nước ta, đồng chí Lê Duẩn đồng thời cũng chỉ ra nét đặc thù của nó:

“Ở nước ta, chuyên chính vô sản ra đời trong tình hình lực lượng sản xuất hết sức lạc hậu, những tiền đề vật chất cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn rất yếu. Bản thân nền sản xuất xã hội đứng giữa ngã ba đường: hoặc đi lên chủ nghĩa xã hội, hoặc đi lên chủ nghĩa tư bản, thậm chí có thể dừng lại trong một thời gian ở tình trạng sản xuất nhỏ. Muốn có chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng từ đầu lực lượng sản xuất mới cũng như quan hệ sản xuất mới, cơ sở kinh tế mới cũng như kiến trúc thượng tầng mới. Trong tình hình đó, tính chủ động của chuyên chính vô sản, vai trò xây dựng và tổ chức của nó cùng tính tự giác của quần chúng lao động trong việc sáng tạo xã hội mới ngày càng vô cùng quan trọng”.

Chuyên chính vô sản dù ở bất cứ điều kiện lịch sử nào cũng vậy, đều có một vai trò xây dựng và tổ chức rất lớn, đều mang một tính chủ động và tự giác rất lớn – tính chủ động và tự giác trong việc xây dựng và tổ chức xã hội mới.

Sở dĩ như vậy là vì chế độ xã hội chủ nghĩa, do bản chất của nó, không hình thành một cách tự phát trong lòng xã hội cũ, mà chỉ có thể xây dựng nên bằng hoạt động tự giác của giai cấp vô sản và quần chúng lao động một khi đã nắm được vận mệnh của mình. J. Xta-lin viết:

“Cách mạng tư sản thường bắt đầu phát sinh khi các hình thức của chế độ tư bản chủ nghĩa hoặc nhiều hoặc ít đã có sẵn rồi, những hình thức đó đã lớn lên và chín muồi trong lòng xã hội phong kiến ngay trước khi cách mạng công khai bùng nổ, còn cách mạng vô sản bắt đầu phát sinh lúc mà các hình thức thành hình hẳn hoi của chế độ xã hội chủ nghĩa đang còn hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn chưa có…Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng tư sản là cướp lấy chính quyền và làm cho nó phù hợp với nền kinh tế tư sản hiện có, còn nhiệm vụ cơ bản của cách mạng vô sản là, sau khi giành được chính quyền, phải xây dựng một nền kinh tế mới, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa…Cách mạng tư sản thường kết thúc bằng việc cướp chính quyền, còn đối với cách mạng vô sản, thì việc cướp chính quyền chỉ mới là bước đầu của nó, vì chính quyền ấy được dùng làm đòn bẩy để cải tạo nền kinh tế cũ và tổ chức nền kinh tế mới”.

Tính chủ động và tự giác của chuyên chính vô sản trong việc tổ chức và xây dựng nền kinh tế mới, trong việc tổ chức và xây dựng xã hội mới – đó là một trong những nét đặc trưng cơ bản của chuyên chính vô sản so với chuyên chính tư sản. Dù trong điều kiện kinh tế lạc hậu hay trong điều kiện kinh tế đã phát triển cao, sứ mệnh lịch sử của chuyên chính vô sản bao giờ cũng là đòn bẩy để cải tạo nền kinh tế cũ và tổ chức nền kinh tế mới. Song, trong điều kiện kinh tế lạc hậu như nước ta, những tiền đề vật chất cần thiết cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn rất yếu ớt thì vai trò xây dựng và tổ chức của chuyên chính vô sản càng nặng nề hơn, tính chủ động và tự giác của nó càng phải phát huy cao độ hơn: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng từ đầu lực lượng sản huất mới cũng như quan hệ sản xuất mới, cơ sở kinh tế mới cũng như kiến trúc thượng tầng mới” (Lê Duẩn). Như vậy, tinh thần cách mạng tiến công, tính chủ động sáng tạo của quần chúng lao động trong việc thực hiện ba cuộc cách mạng nhằm xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là thuộc về bản chất của chuyên chính vô sản và là do những điều kiện lịch sử của nước ta quy định. Đáp ứng đúng những đòi hỏi ấy của lịch sử, đó là trách nhiệm của chúng ta.

Nói đến chuyên chính vô sản tức là nói đến nền dân chủ rộng rãi, đầy đủ chưa từng có trong lịch sử, đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh: “Chuyên chính vô sản ra đời là sự đảo lộn xã hội vô cùng sâu sắc, đưa quyền dân chủ lại cho nhân dân lao động là lớp người đông đảo nhất trong xã hội, đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, làm chủ kinh tế, văn hóa, làm chủ đời sống của mình. Từ đây trở đi, họ mới thực sự là chủ thể của lịch sử”. Người đọc dễ dàng nhận thấy tư tưởng dân chủ xã hội chủ nghĩa này quán xuyến mọi cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề của đồng chí Lê Duẩn; nổi bật nhất là trên các vấn đề: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng tư tưởng và văn hóa, phát triển kinh tế địa phương, quản lý kinh tế và quản lý xí nghiệp. Qua cách giải quyết các vấn đề nói trên, ta thấy nổi lên mối quan tâm sâu sắc của đồng chí là làm thế nào bảo đảm cho quần chúng lao động thực hiện được đầy đủ nhất quyền làm chủ tập thể của mình trong quản lý kinh tế và trong phân phối, làm thế nào cho quyền làm chủ tập thể của quần chúng lao động trở thành thể chế và pháp chế xã hội chủ nghĩa và tư tưởng làm chủ tập thể trở thành nếp nghĩ và nếp sống của con người Việt Nam mới, con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bản chất của chuyên chính vô sản đòi hỏi như vậy. Vận mệnh của chuyên chính vô sản cũng đòi hỏi như vậy.

Vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ

Nếu như ở đoạn trên, chúng ta đã tìm hiểu vấn đề này về mặt phương pháp luận – để làm thí dụ – thì bây giờ, vì nội dung sâu xa của nó không thể không trở lại vấn đề này một lần nữa.

Ai cũng biết, đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề chính trị hàng đầu của chuyên chính vô sản: giải quyết vấn đề này như thế nào có ảnh hưởng quyết định đến mọi mặt của đời sống xã hội, thậm chí đến cả vận mệnh của bản thân chuyên chính vô sản.

Theo nội dung diễn đạt của đồng chí Lê Duẩn thì người ta không thể hiểu đấu tranh giai cấp chỉ đơn giản là sự chọi nhau giữa hai hạng người đối địch, giữa hai trận tuyến đối địch, mà cần phải hiểu giai cấp và đấu tranh giai cấp trên cơ sở kinh tế của nó.

Chủ nghĩa Mác – Lênin không bao giờ hiểu giai cấp tách rời những điều kiện kinh tế nhất định, bởi vì – như C. Mác đã từng nhấn mạnh – “Sự tồn tại của giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển của sản xuất”. Giai cấp như Lênin định nghĩa, “là những tập đoàn người rộng rãi, những tập đoàn này khác nhau về địa vị do lịch sử quy định, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức xã hội về lao động, và như vậy là khác nhau về phương thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được sử dụng. Giai cấp là những tập đoàn người, trong đó tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ nhất định của kinh tế xã hội.

Có hiểu giai cấp và nguồn gốc của giai cấp như vậy thì mới hiểu được cách đặt vấn đề của Lênin về đấu tranh giai cấp trong điều kiện chuyên chính vô sản. Người viết:

“Muốn chiến thắng, muốn tạo lập và củng cố chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải hoàn thành hai nhiệm vụ nhưng chỉ là một: một là dùng tinh thần anh dũng bất diệt trong cuộc đấu tranh của mình chống tư bản để lôi cuốn tất cả quần chúng lao động và bị bóc lột; lôi cuốn, tổ chức, lãnh đạo họ để nhằm đánh đổ giai cấp tư sản và hoàn toàn đè bẹp mọi sự kháng cự của giai cấp đó; hai là làm cho hết thảy quần chúng lao động và bị bóc lột vào con đường kiến thiết kinh tế mới, để tạo ra những quan hệ xã hội mới, một kỷ luật mới trong lao động, một tổ chức lao động mới, có khả năng phối hợp những thành tựu mới nhất của khoa học và kĩ thuật tư bản chủ nghĩa với sự tập hợp đông đảo những người lao động tự giác chuyên tâm tạo ra nền đại sản xuất xã hội chủ nghĩa.

“Nhiệm vụ thứ hai khó khăn hơn nhiệm vụ thứ nhất vì không thể mảy may giải quyết nhiệm vụ đó bằng một hành động anh hùng bốc lên một cách đơn độc được; nhiệm vụ đó đòi hỏi phải có một tinh thần anh dũng, kiên nhẫn nhất, bền bỉ nhất, khó khăn nhất trong một hành động có tính chất quần chúng và hàng ngày. Nhưng nhiệm vụ đó còn quan trọng hơn nhiệm vụ thứ nhất vì phân tích đến cùng thì nguồn nghị lực sâu sắc nhất để chiến thắng giai cấp tư sản và cái bảo đảm duy nhất cho sự vững mạnh và tính chất không lay chuyển nổi của những thắng lợi đó, chỉ có thể là một phương thức sản xuất xã hội mới, cao hơn, chỉ có thể là việc đem nền đại sản xuất xã hội chủ nghĩa thay thế cho nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và tiểu tư sản”.

Như trên ta thấy, Lênin không đặt việc “đánh đổ giai cấp cấp tư sản và hoàn toàn đè bẹp mọi sự kháng cự của giai cấp đó” như một nhiệm vụ tự nó đã đủ, không có liên quan gì đến sự nghiệp xây dựng nền kinh tế mới, xã hội chủ nghĩa. Trái lại, theo quan niệm của Người, hai nhiệm vụ đó chỉ là một. Đánh đổ giai cấp tư sản, hoàn toàn đè bẹp mọi sự kháng cự của giai cấp đó và xây dựng nền kinh tế mới, xã hội chủ nghĩa đều nhằm một mục đích duy nhất: chiến thắng giai cấp tư sản. Hơn nữa, Người coi nhiệm vụ thứ hai còn quan trọng hơn cả nhiệm vụ thứ nhất, vì phân tích đến cùng thì nguồn nghị lực sâu sắc nhất để chiến thắng giai cấp tư sản và cái bảo đảm cho sự vững chắc cho những thắng lợi đối với giai cấp đó chỉ có thể là một phương thức sản xuất mới, cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Muốn xóa bỏ giai cấp tư sản mà chỉ nhìn thấy và trấn áp, bạo lực, hoặc chỉ đơn thuần dựa vào đấu tranh chính trị và tư tưởng không thôi – đành rằng tất cả những cái này đều là tuyệt đối cần thiết và đều có vị trí nhất định của nó – thì tức là quên mất cái gốc của vấn đề giai cấp. Như vậy thì không bao giờ có thể đạt tới cái đích cuối cùng của chuyên chính vô sản, cái đích cuối cùng của đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản: Xóa bỏ vĩnh viễn mọi giai cấp bóc lột, tiến lên xóa bỏ mọi giai cấp (cũng tức là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản).

Thật không phải không có dụng ý khi Lênin nhiều lần nhấn mạnh cái chân lý và nguyên lý đơn giản nhưng cực kì trọng yếu ấy. Người viết ở một số đoạn khác:

“Chuyên chính vô sản – như tôi đã có dịp vạch ra nhiều lần, … – không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái bảo đảm cho sức sống và sự thắng lợi của nó, chính là việc giai cấp vô sản đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức xã hội về lao động, cao hơn, so với chủ nghĩa tư bản. Đây là điểm chủ yếu của vấn đề. Do đó mà có lực lượng, mà bảo đảm được thắng lợi hoàn toàn và nhất định của chủ nghĩa cộng sản”.

“Phân tích đến cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, cái căn bản nhất cho sự thắng lợi của trật tự xã hội mới. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa tư bản có thể bị đánh bại hẳn, và sẽ bị đánh bại hoàn toàn và chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn nhiều”.

Có hiểu được những nguyên lý trên đây của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp thì mới hiểu được cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở nước ta của đồng chí Lê Duẩn. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trong thời kì quá độ ở nước ta cũng như ở bất kì nước nào khác “đều có nhiệm vụ giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội (Lê Duẩn), nói cách khác là bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi hoàn toàn và triệt để. Để đạt mục đích đó – như Lênin đã từng chỉ ra – không những cần phải đánh đổ giai cấp tư sản, đè bẹp sự kháng cự của nó và của mọi lực lượng phản động khác, mà còn phải xây dựng thành công nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nữa.

Về nhiệm vụ thứ nhất, đồng chí Lê Duẩn khẳng định:

“Ở các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, việc xóa bỏ các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và mọi hình thức bóc lột khác, việc ngăn chặn khuynh hướng phát triển tự phát tư bản chủ nghĩa của sản xuất nhỏ, việc đập tan mọi âm mưu ngóc đầu dậy của các phần tử thù địch, bảo đảm trật tự an ninh, tăng cường khả năng quốc phòng để chống ngoại xâm, đương nhiên là một cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, phức tạp, là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của chuyên chính vô sản. Có tiến hành đến thắng lợi hoàn toàn cuộc đấu tranh ấy hay không, đó là một trong những điểm mấu chốt phân biệt lập trường cách mạng của giai cấp vô sản với chủ nghĩa cải lương tư sản và tiểu tư sản.

“…Mất cảnh giác đối với giai cấp bóc lột và các lực lượng phản cách mạng khác, nhất là trong điều kiện nước ta hiện nay đang phải tiến hành cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp quyết liệt chống đế quốc Mĩ, tên đế quốc hung bạo nhất thế giới, trong điều kiện đấu tranh gay gắt giữa hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa trên phạm vi thế giới, là một sai lầm hữu khuynh nguy hiểm, là một tội ác đối với cách mạng”.

Sự sáng sủa của cách đặt vấn đề ở đây là không thể bàn cãi được. Và thực ra, thường thì người ta dễ dàng nhất trí ở điểm này, ngoại trừ bọn cách mạng đầu lưỡi, bọn cải lương tư sản và tiểu tư sản. Vấn đề là ở chỗ: dừng lại ở đây hay tiếp tục đi tới nữa, tìm tới cái gốc kinh tế nảy sinh ra giai cấp bóc lột để có biện pháp triệt nó tận gốc – đúng như Lênin đã từng chỉ ra trong “nhiệm vụ thứ hai” nói ở trên.

Nhấn mạnh nhiệm vụ thứ hai này như là nhiệm vụ “còn quan trọng hơn cả nhiệm vụ thứ nhất”, như là nhiệm vụ cơ bản nhất nhằm giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để cho chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện cụ thể của nước ta lại càng là cần thiết và thích hợp. Bởi vì, như ai nấy đều biết, ở nước ta, thành phần kinh tế tư bản vốn ra rất nhỏ bé, trong khi đó thì nền sản xuất nhỏ lại vô cùng rộng lớn, mà nền sản xuất này thì lại “từng ngày, từng giờ, luôn luôn đẻ ra chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, một cách tự phát và trên nước quy mô rộng lớn”. Xóa bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản là tuyệt đối cần thiết, nhưng cơ bản hơn, khó khăn hơn và lâu dài hơn lại là việc chuyển toàn bộ nền sản xuất nhỏ cũng tức là chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân thành nền sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa, lấy kĩ thuật hiện đại làm nền tảng. Công việc này, người ta không thể dựa vào đấu tranh chính trị hay tư tưởng mà giải quyết được (đành rằng đấu tranh chính trị và tư tưởng có chương trình nhất định của nó), càng không thể dựa vào trấn áp và bạo lực. Tiếp tục tấn công vào các giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ và tước đoạt cũng không đem lại một bước tiến nào cho lực lượng sản xuất xã hội. Trong công việc này, nhiệm vụ chủ yếu phải là nhiệm vụ xây dựng và trận địa chủ yếu phải là trận địa kinh tế – kĩ thuật. Như vậy, đấu tranh giai cấp triệt để nhất không phải ở chỗ trấn áp nhiều, bạo lực nhiều (trấn áp và bạo lực nhiều hay ít tùy ở sự kháng cự nhiều hay ít của các giai cấp bóc lột) mà là ở chỗ “nắm vững chuyên chính vô sản để tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng kĩ thuật là then chốt (Lê Duẩn), nhằm xóa bỏ vĩnh viễn những điều kiện kinh tế – xã hội làm nảy sinh và phục hồi chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi hoàn toàn và triệt để.

Để hiểu đầy đủ luận điểm của đồng chí Lê Duẩn, chúng ta hãy suy nghĩ sâu sắc về đoạn viết cực kì quan trọng sau đây.

Sau khi khẳng định phải xóa bỏ các giai cấp bóc lột và đè bẹp sự kháng cự của chúng cùng mọi lực lượng phản động khác, đồng chí viết tiếp: “Song, nội dung của chiến tranh giai cấp không đóng khung ở đó, bởi vì muốn chiến thắng triệt để giai cấp tư sản và các lực lượng phản động khác, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì chỉ riêng việc xóa bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa cùng mọi hình thức bóc lột khác chưa đủ. Đặc biệt trong tình hình miền Bắc nước ta, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế, thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa vốn rất nhỏ bé, chỉ riêng việc tước đoạt các giai cấp bóc lột chưa thể tạo ra được cơ sở vật chất và kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, chỉ riêng việc trấn áp các lực lượng phản cách mạng chưa đủ để bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Vấn đề cơ bản ở đây là phải cải tạo sản xuất nhỏ, cá thể, thành sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa, là xây dựng mới gần như toàn bộ cơ sở vật chất và kĩ thuật, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng của xã hội xã hội chủ nghĩa thông qua việc thực hiện đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kĩ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa. Bằng cách đó, chủ yếu bằng cách đó, mới ngăn chặn được sản xuất nhỏ tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản, mới vĩnh viễn xóa bỏ được những điều kiện kinh tế – xã hội làm nảy sinh và phục hồi chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, mới bảo đảm được thắng lợi hoàn toàn và triệt để cho chủ nghĩa xã hội.

“Vì vậy, chúng ta nói: đấu tranh giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta chủ yếu là đấu tranh đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; nắm vững chuyên chính vô sản để tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng kĩ thuật là then chốt, là nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta.

“…Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc hiện nay, nếu đánh giá quá cao thế lực của các giai cấp bóc lột và các lực lượng phản cách mạng khác, nếu chỉ thấy nhiệm vụ trấn áp mà không thấy nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức xây dựng, thực hiện ba cuộc cách mạng thì cũng là một sai lầm nghiêm trọng”.

Như trên ta thấy, luận điểm của đồng chí Lê Duẩn về đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở miền Bắc nước ta là sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin và điều kiện cụ thể của nước ta, là sự kết hợp và hòa hợp giữa tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp vô sản và sự phân tích khoa học sâu sắc đối với tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của nước ta. Nó vạch ra cho chúng ta con đường đấu tranh đi tới thắng lợi triệt để của giai cấp vô sản, đi tới thắng lợi triệt để của chủ nghĩa xã hội. Nó tránh cho chúng ta khỏi rơi vào sai lầm hữu khuynh, mất cảnh giác đối với các giai cấp bóc lột và các lực lượng phản cách mạng khác; đồng thời cũng tránh cho chúng ta khỏi rơi vào sai lầm “tả” khuynh, chỉ thấy nhiệm vụ trấn áp mà không thấy nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức, xây dựng, thực hiện ba cuộc cách mạng, hoặc là đánh giá quá cao thế lực của các giai cấp bóc lột và các lực lượng phản cách mạng khác, đi tới những hành động bạo lực bừa bãi, trấn áp bừa bãi, gây ra những sự căng thẳng không đáng có trong xã hội. Mất cảnh giác đối với các lực lượng phản cách mạng là một sai lầm, một tội ác đối với cách mạng, điều đó đã rõ ràng. Song, đánh giá quá cao thế lực của các lực lượng phản cách mạng, đi tới những hành động bạo lực bừa bãi, trấn áp bừa bãi, cũng là một sai lầm, một tội ác đối với cách mạng.

Về ba cuộc cách mạng

Sự cần thiết phải tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng cùng vị trí, nội dung, bước đi của mỗi cuộc cách mạng đó là kết luận trực tiếp rút ra từ sự phân tích đặc điểm của nước ta – một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Ở nước ta, không thể nói rằng lực lượng sản xuất đã đạt tới một trình độ xã hội hóa cao, nghĩa là đạt đến độ chín muồi khiến cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội trở thành một tất yếu về kinh tế. Trái lại, như đồng chí Lê Duẩn nhận định, “bản thân nền sản xuất xã hội đang đứng giữa ngã ba đường: hoặc đi lên chủ nghĩa xã hội, hoặc đi lên chủ nghĩa tư bản, thậm chí có thể dừng lại trong một thời gian ở tình trạng sản xuất nhỏ”. Đương nhiên, tình trạng chưa chín muồi của lực lượng sản xuất không phải là một chướng ngại không thể vượt qua nổi, khi mà sự phát triển của lịch sử đã đặt chính những nước lạc hậu về kinh tế này lên quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội, khi mà chuyên chính vô sản đã được dựng lên như là kết quả tất nhiên của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, và nền chuyên chính này được sự giúp đỡ cần thiết của các nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển. Vấn đề chỉ là ở chỗ chúng ta phải bắt tay “xây dựng mới gần như toàn bộ cơ sở vật chất và kĩ thuật, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng của xã hội xã hội chủ nghĩa thông qua việc đồng thời thực hiện ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kĩ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa” (Lê Duẩn). Như vậy, so với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở những nước tư bản phát triển thì nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nặng nề hơn nhiều, khó khăn hơn nhiều.

Ở các nước tư bản phát triển, lực lượng sản xuất đã đạt đến một trình độ xã hội hóa cao khiến cho nó không còn có thể vừa nằm trong cái vỏ tư bản chủ nghĩa của nó được nữa, vì vậy chỉ cần giai cấp vô sản – nhân danh xã hội – nắm lấy lực lượng sản xuất, thì về cơ bản đã có chủ nghĩa xã hội. Như vậy là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở đây chủ yếu diễn ra trên lĩnh vực sản xuất, trên lĩnh vực sở hữu.

Đương nhiên, chuyên chính vô sản ở các nước này cũng phải dựng lên cái cơ sở vật chất – kĩ thuật thật sự của chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ này được thực hiện không phải bằng cách xây dựng mới hoàn toàn nền đại công nghiệp, không phải bắt tay vào một cuộc cách mạng công nghiệp – công việc này đã được hoàn thành dưới chủ nghĩa tư bản rồi – mà bằng cách hoàn chỉnh, hoàn thiện nền đại công nghiệp sẵn có, đồng thời sử dụng nó làm đòn bẩy để cải tạo nốt một số khu vực còn lạc hậu của nền kinh tế quốc dân.

Ở các nước này, khi dựng lên nền đại công nghiệp và mạng lưới ngân hàng bao trùm khắp nước thì đồng thời, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một hệ thống chằng chịt những mối quan hệ rất chặt chẽ giữa các ngành kinh tế, giữa các xí nghiệp – hệ thống những quan hệ sản xuất của một nền đại sản xuất mà thiếu nó thì, như Lênin nói “không có một biện pháp nào có thể thực hiện được về mặt kĩ thuật nhằm tiến tới chủ nghĩa xã hội cả”. Trong những điều kiện như vậy, chỉ cần giai cấp vô sản tống cổ bọn chủ tư bản khỏi các xí nghiệp và ngân hàng, nhân danh toàn xã hội mà nắm lấy bộ máy đại sản xuất và những quan hệ sản xuất sẵn có của nó thì về cơ bản, đã làm xong cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất (nền sản xuất nhỏ của tiểu nông, tiểu chủ từ lâu đã bị chủ nghĩa tư bản thôn tính toàn bộ hoặc gần như toàn bộ rồi).

Về mặt tư tưởng và văn hóa, chuyên chính vô sản ở các nước tư bản phát triển cũng thừa hưởng được những di sản quan trọng: trình độ văn hóa tương đối cao của dân cư, một đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật và công nhân lành nghề tương đối đông đảo, những tư tưởng và tập quán của nền đại sản xuất, vv…

Ở các nước lạc hậu về kinh tế, cái thiếu cơ bản nhất lại chính là những tiền dề vật chất – kĩ thuật làm nền tảng cho xã hội mới. Vì vậy, chuyên chính vô sản phải xây dựng mới hoàn toàn nền đại công nghiệp, và với nền đại công nghiệp đó làm đòn bẩy, chuyển toàn bộ nền sản xuất nhỏ, kĩ thuật lạc hậu thành nền sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa và hiện đại hóa. Quá trình này cũng đồng thời là quá trình dựng lên hệ thống quan hệ sản xuất mới, hệ thống những mối liên hệ và quan hệ gắn bó giữa các ngành kinh tế, giữa các xí nghiệp lớn, xã hội chủ nghĩa, mà nền sản xuất nhỏ, phân tán trước đây chưa hề biết đến. Đó cũng là quá trình cải biến tư tưởng và tập quán của những người sản xuất nhỏ (chiếm tuyệt đại đa số dân cư) theo yêu cầu của nền đại sản xuất xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ văn hóa phổ thông của dân cư, đào tạo hàng loạt cán bộ khoa học kĩ thuật và công nhân lành nghề, v.v… Nói tóm lại là quá trình đào luyện ra con người mới xã hội chủ nghĩa và dựng lên kiến trúc thượng tầng mới xã hội chủ nghĩa. Ba quá trình này, phải tiến hành đồng thời, xoắn xuýt với nhau, cái nọ thúc đẩy cái kia, cái nọ làm điều kiện cho cái kia. Ở đây, không có và cũng không thể có tình trạng “lực lượng sản xuất đi trước quan hệ sản xuất” hoặc ngược lại “quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản xuất”. Hai bộ phận hữu cơ đó của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa phải được sáng tạo ra đồng thời, ăn khớp với nhau trên mỗi bước đi cụ thể và tiến dần từ thấp lên cao. Cho rằng lực lượng sản xuất thích hợp của chủ nghĩa xã hội (nền đại công nghiệp cơ khí) nhất thiết phải ra đời trước để làm điều kiện cho sự ra đời của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, hoặc cho rằng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có thể ra đời trước để bất chấp tình trạng của lực lượng sản xuất như thế nào, đều là cách diễn đạt phiến diện, máy móc về mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt đó của phương thức sản xuất xã hội. Chúng ta không thể khoanh tay ngồi chờ lực lượng sản xuất tự nó phát triển một cách chậm chạp trong khuôn khổ các quan hệ sản xuất cũ (tư bản chủ nghĩa và tiểu sản xuất hàng hóa) cho đến lúc chín muồi mới chuyển sang chủ nghĩa xã hội. Trái lại, chúng ta có thể và phải chủ động cải tạo các quan hệ sản xuất cũ, dựng lên những quan hệ sản xuất mới, mang tính chất xã hội chủ nghĩa ở những mức độ khác nhau mà trình độ phát triển thực tại của lực lượng sản xuất cho phép nhằm lợi dụng các quan hệ sản xuất tiên tiến này để đẩy mạnh lực lượng sản xuất phát triển. Mặt khác, chúng ta cũng không thể tùy tiện dựng lên những hình thức quan hệ sản xuất vượt xa trình độ phát triển thực tại của lực lượng sản xuất; trái lại, phải luôn luôn xuất phát từ trình độ đã đạt được của lực lượng sản xuất mà dựng lên những hình thức quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thích hợp và từng bước hoàn thiện chúng. Sở dĩ như vậy là vì: những quan hệ sản xuất tiên tiến chỉ khi nào chúng thực sự là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, khi nào chúng thực sự có khả năng tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển, mà muốn như vậy thì sự xuất hiện của chúng phải nhằm vào lúc những điều kiện tồn tại vật chất của chúng “đã có, hoặc ít ra cũng đang hình thành”. Nói cách khác, nếu quan hệ sản xuất mang tính chất xã hội chủ nghĩa ở một mức độ nào đó là hình thức phát triển thuận lợi nhất của lực lượng sản xuất đương thời thì ngược trở lại, một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất lại là điều kiện tồn tại của chính những quan hệ sản xuất ấy. Một hình thức quan hệ sản xuất mà vượt quá trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cho phép thì chẳng những nó không thúc đẩy được lực lượng sản xuất phát triển mà còn gây tác dụng phá hoại nữa; cuối cùng chính hình thức “quá tiên tiến” ấy phải bị loại bỏ và thay thế bằng hình thức ít tiên tiến hơn nhưng lại phù hợp với trình độ phát triển thực tại của lực lượng sản xuất. Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất không theo kịp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó biến thành chướng ngại cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, cuối cùng phải bị thay thế bởi những hình thức tiên tiến hơn, phù hợp với trình độ đã đạt được của lực lượng sản xuất. Như vậy, quy luật quan hệ sản xuất nhất định phải thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật chung nhất của sự phát triển của xã hội – vẫn phát sinh tác dụng ở đây như một quy luật khách quan có tính chất cưỡng chế. Điều mới mẻ chỉ là ở chỗ: trong các xã hội trước đây, nó phát sinh tác dụng một cách tự phát, còn bây giờ, xã hội đã có điều kiện vận dụng nó một cách tự giác để đáp ứng yêu cầu của quy luật này. Trong khi sáng tạo ra nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải tiến hành đồng thời, ăn khớp với nhau, hai cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng kĩ thuật, bảo đảm sao cho lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển với tốc độ nhanh nhất trên con đường hiện đại hóa, còn quan hệ sản xuất thì luôn luôn là hình thức phát triển tốt nhất của lực lượng sản xuất. Không nhận thức được quy luật này, hoặc chủ quan, tùy tiện, không tôn trọng yêu cầu của quy luật thì dễ xảy ra những lệch lạc “tả” khuynh, muốn đốt cháy giai đoạn trên vấn đề cách mạng sản xuất, hoặc ngược lại, dễ có thái độ đủng đỉnh, trì trệ trên vấn đề cách mạng kĩ thuật.

“Một đường lối kinh tế đúng đắn trước hết phải là một đường lối đồng thời thúc đẩy cả hai cuộc cách mạng đó, biết phát huy tác dụng qua lại biện chứng của hai cuộc cách mạng đó. Một mặt, phải biết tận dụng vai trò tích cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa để nhanh chóng phân công lại lao động xã hội, phát triển sản xuất cải thiện đời sống nhân dân và tăng nhanh tích lũy cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; mặt khác, phải tùy theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà chủ động hoàn thiện không ngừng quan hệ sản xuất mới, làm cho quan hệ sản xuất mới, nhất là chế độ quản lý kinh tế, luôn luôn giữ được vai trò “mở đường, thúc đẩy đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất” (Lê Duẩn). Một đường lối như thế là một đường lối đáp ứng tốt nhất yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đồng thời phát huy được tốt nhất sức mạnh tự giác của chuyên chính vô sản, nhằm thúc đẩy rút ngắn quá trình ra đời và phát triển hợp quy luật của phương thức sản xuất mới.

Nói đến xây dựng nền kinh tế mới, xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu thì chủ yếu phải nói đến cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng kĩ thuật. Song, làm động lực cho sự hình thành nền kinh tế mới, không phải chỉ có hai cuộc cách mạng đó mà còn có cách mạng tư tưởng và văn hóa nữa. Cách mạng tư tưởng văn hóa không tác động trực tiếp vào kinh tế mà vào những lĩnh vực của kiến trúc thượng tầng, vào bản thân con người; nhưng chính là thông qua những lĩnh vực này của kiến trúc thượng tầng thông qua con người mới mà nó đào luyện ra mà cách mạng tư tưởng và văn hóa có được vai trò như trên đối với việc xây dựng cơ sở kinh tế mới cũng như xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật mới. Thật vậy, không thể dựng lên được hệ thống quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nếu không có một sự chuyển biến căn bản trong tư tưởng và tâm lý của người tiểu sản xuất, tiểu tư hữu. Cũng không thể mơ tưởng đến một nền đại công nghiệp cơ khí nếu không có hàng chục và hàng trăm vạn người lao động làm chủ được kĩ thuật và khoa học. Và đó chính là nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa. “Cuộc cách mạng này đạt được kết quả càng nhiều, càng nhanh bao nhiêu thì càng thúc đẩy cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng kĩ thuật bấy nhiêu. Ngược lại, chính cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng kĩ thuật lại tạo nên những cơ sở kinh tế và kĩ thuật cần thiết để triển khai cách mạng tư tưởng và văn hóa, củng cố những thành quả của cách mạng tư tưởng và văn hóa” (Lê Duẩn).

Đương nhiên, cách mạng tư tưởng và văn hóa có ý nghĩa rộng hơn là làm một động lực trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Con người mới xã hội chủ nghĩa, mà nó tạo ra là nhân tố rất cơ bản, rất tích cực của lực lượng sản xuất, nhưng chính con người đó cũng lại là đối tượng phục vụ của bản thân nền sản xuất. Việc “xây dựng những con người mới, xã hội chủ nghĩa, đem lại giá trị chân chính cho con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, trở thành chủ thể có ý thức trong sự sáng tạo lịch sử – nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa – là một mục đích tự nó trước khi là một thủ đoạn của sản xuất, là một việc làm vì bản thân con người trước khi là một đòn bẩy của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa (nền sản xuất này chung quy lại cũng là vì con người).

Kiến trúc thượng tầng mới do cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa dựng lên cũng vậy. Mặc dầu nó có thể xem như một đòn bẩy rất mạnh mẽ đối với việc xây dựng cơ sở kinh tế và cơ sở vật chất – kĩ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa, nhưng chính nó cũng lại là một bộ phận hữu cơ của xã hội này như hai cơ sở nói trên. Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa không phải chỉ là xây dựng nền kinh tế mới, mà còn là xây dựng con người mới, kiến trúc thượng tầng mới.

Với những ý nghĩa như trên, cách mạng tư tưởng và văn hóa là một mặt hết sức quan trọng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, “nhất là đối với nước ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một con đường phát triển mới mẻ, đòi hỏi nhiều trí sáng tạo và tính tự giác cao; nhưng tư tưởng và tập quán trong xã hội ta còn in đậm dấu vết của nền sản xuất nhỏ, trình độ văn hóa, khoa học kĩ thuật của nhân dân ta còn thấp, cho nên cách mạng tư tưởng và văn hóa càng đặc biệt quan trọng” (Lê Duẩn).

Nhấn mạnh vai trò của cách mạng tư tưởng và văn hóa như đồng chí Lê Duẩn chính là nhấn mạnh tính tự giác và sáng tạo của người lao động tập thể, nhấn mạnh tính năng động chủ quan của con người trong việc thúc đẩy quá trình phát triển hợp quy luật lịch sử. Chúng ta làm cách mạng tư tưởng và văn hóa là nhằm nâng con người lên, về mặt tư tưởng cũng như về mặt văn hóa, khoa học và kĩ thuật, làm cho con người nắm được các quy luật của xã hội và của tự nhiên để vận dụng một cách tự giác, chủ động, sáng tạo trong công cuộc xây dựng nền kinh tế mới và xã hội mới. Chúng ta làm cách mạng tư tưởng và văn hóa là nhằm “đem lại giá trị chân chính cho con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, trở thành chủ thể có ý thức trong sự sáng tạo lịch sử”.

Cách mạng tư tưởng và văn hóa không thể đạt được mục tiêu đề ra nếu nó không được tiến hành đồng thời với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng kĩ thuật, nếu nó không có được những điều kiện kinh tế và kĩ thuật do hai cuộc cách mạng này tạo ra. “Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Điều này nói lên sự phụ thuộc của cách mạng tư tưởng và văn hóa vào hai cuộc cách mạng kia cũng giống như hai cuộc cách mạng kia phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc và cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa.

Như vậy, từ một nền kinh tế lạc hậu tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa, chúng ta bắt buộc phải xây dựng từ đầu cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng của xã hội mới, và xây dựng những cái này trong một chỉnh thể gắn bó khăng khít với nhau, nương tựa vào nhau, do đó phải ăn khớp với nhau trên mỗi bước đi cụ thể. Vì thế, phát huy cao độ tính chủ động, tự giác và sáng tạo của chuyên chính vô sản để tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng kĩ thuật là then chốt, như đồng chí Lê Duẩn chỉ ra, là phương hướng cơ bản có tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, là nội dung tất yếu của việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Về cách mạng quan hệ sản xuất

Sau khi chỉ ra sự cần thiết khách quan phải tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng – cũng tức là tiến hành ba cuộc cách mạng đó ăn khớp với nhau trên mỗi bước đi cụ thể, lấy cái nọ làm điều kiện cho cái kia, lấy cái nọ thúc đẩy cái kia – đồng chí Lê Duẩn đi vào từng cuộc cách mạng để chỉ ra vị trí, nội dung và bước đi của nó. Xác định được đúng đắn vị trí, nội dung và bước đi của ba cuộc cách mạng cũng chính là xác định được đúng đắn đường lối, phương hướng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Về cách mạng quan hệ sản xuất, đồng chí Lê Duẩn viết:

“Quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, điều đó có nghĩa là chúng ta không có sẵn một nền đại công nghiệp, một cơ sở vật chất và kĩ thuật phát triển cao. Nhưng, không thể thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên cơ sở một nền nông nghiệp phân tán, lạc hậu trong khi vẫn duy trì thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế cá thể hằng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, cách mạng quan hệ sản xuất là bước đi tất yếu để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, đẩy nhanh cách mạng kĩ thuật, để xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về mặt kinh tế. Cũng do kết quả của cuộc cách mạng này mà liên minh công nông được củng cố, chuyên chính vô sản được tăng cường, cách mạng tư tưởng và văn hóa có được những điều kiện kinh tế – xã hội làm cơ sở cho sự hình thành những tư tưởng mới và tình cảm mới của con người mới”.

Trên vấn đề này cũng vậy, đồng chí Lê Duẩn xuất phát từ đặc điểm cơ bản của miền Bắc nước ta để xem xét và giải quyết vấn đề. Đặc điểm này quy định cách mạng quan hệ sản xuất ở nước ta có nhiều nét không giống chủ nghĩa quan hệ sản xuất ở những nước tư bản phát triển. Ở những nước này, cách mạng xã hội chủ nghĩa được thực hiện khi lực lượng sản xuất đã đạt đến một trình độ xã hội hóa cao. Vì vậy:

– Chỉ cần giai cấp công nhân nhân danh toàn thể xã hội nắm lấy lực lượng sản xuất thì về cơ bản đã có chủ nghĩa xã hội. Điều này có nghĩa là cách mạng xã hội chủ nghĩa được hoàn thành trong một thời gian lịch sử tương đối ngắn và trong toàn bộ sự nghiệp đó thì cách mạng quan hệ sản xuất chiếm địa vị quyết định nhất, chủ yếu nhất.

– Nội dung của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất cũng tương đối đơn giản: chủ yếu là “tước đoạt những kẻ tước đoạt”.

– Ngay từ đầu đã có thể thiết lập những quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở một trình độ cao, tương ứng với lực lượng sản xuất đã đạt đến một trình độ xã hội hóa cao.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, điều đó trước hết có nghĩa là chúng ta không sẵn có một cơ sở vật chất – kĩ thuật phát triển cao. Nhiệm vụ then chốt của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải xây dựng lên cái cơ sở đó, thông qua một cuộc cách mạng kĩ thuật, một quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Nhưng, rõ ràng là không thể thực hiện được công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên cơ sở một nền nông nghiệp cá thể, phân tán, kĩ thuật lạc hậu và hầu như chỉ đủ sức nuôi sống chính những người lao động trên đồng ruộng. Với nền nông nghiệp như thế thì không thể cung cấp được lương thực và thực phẩm cho công nhân, không thể cung cấp được nguyên liệu cho công nghiệp, không thể giải phóng được lao động khỏi nông thôn để tăng cường cho đội quân công nghiệp, không thể xuất khẩu được nông sản để đổi lấy thiết bị máy móc. Cải tạo nông nghiệp, biến nền nông nghiệp tự cấp tự túc thành nền nông nghiệp có những sản phẩm hàng hóa và có khả năng giải phóng lao động khỏi nông thôn, quá trình này đã từng diễn ra đồng thời với cuộc cách mạng công nghiệp tư bản chủ nghĩa và làm điều kiện cho cuộc cách mạng đó. Nó cũng tất yếu phải diễn ra đồng thời với cuộc cách mạng công nghiệp xã hội chủ nghĩa và làm điều kiện cho cuộc cách mạng đó. Sở dĩ nó là tất yếu đối với cuộc cách mạng công nghiệp – tư bản chủ nghĩa hay là xã hội chủ nghĩa – bởi vì nó là bước phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất, do quy luật phát triển cân đối của sản xuất đặt ra. Sự khác nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội chỉ là ở phương thức thực hiện sự cải biến đó. Chủ nghĩa tư bản thực hiện hiện sự cải biến nông nghiệp, làm cho nông nghiệp thích ứng với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp, bằng cách tước đoạt nông dân, lấy ruộng đất của họ biến thành bãi nuôi cừu (như ở Anh) hoặc chuyển sang trồng các loại cây công nghiệp và biến bản thân họ thành vô sản làm thuê. Còn chủ nghĩa xã hội thực hiện sự cải biến ấy bằng cách tổ chức nông dân lại, để từ đó tạo ra sức sản xuất mới và sự phân công lao động mới, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Bằng phương thức như vậy, chủ nghĩa xã hội đã đạt được cả hai mục tiêu cùng một lúc: một mặt, mở đường cho lực lượng sản xuất trong nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, làm cho nông nghiệp trở thành cơ sở cho sự phát triển của công nghiệp; mặt khác, xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là miếng đất vẫn hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, xây dựng quyền làm chủ tập thể của nông dân lao động về mặt kinh tế.

Chỉ hạn chế ý nghĩa cuộc cách mạng quan hệ sản xuất trong việc xóa bỏ bóc lột là một quan niệm không những phiến diện mà còn hết sức sai lầm. Từ quan niệm đó, người ta dễ đi đến chỗ chạy theo những hình thái quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa càng cao càng tốt, bất chấp hiệu quả đối với sản xuất ra sao, bất chấp trình độ phát triển thực tại của lực lượng sản xuất có cho phép hay không, hoặc thỏa mãn ở việc dựng nên những hình thái quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, không thấy nhiệm vụ còn quan trọng hơn nữa là phát huy tác dụng của những quan hệ sản xuất ấy đối với sự phát triển của sản xuất. Những hiện tượng này không phải là hiếm trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của chúng ta và hiện nay vẫn chưa phải là đã được khắc phục.

Một quan niệm khác cũng hết sức sai lầm cho rằng: hợp tác hóa nông nghiệp trong điều kiện nông nghiệp chưa được cơ giới hóa là quá sớm. Rằng phải chờ cho đến khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp phát triển đến trình độ xã hội hóa cao, lúc đó hợp tác hóa mới là “hợp quy luật”. Khi lập luận như vậy, người ta đã hiểu một cách máy móc và sai lệch quy luật quan hệ sản xuất phải thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Người ta quên rằng ngay chủ nghĩa tư bản, trong quá trình cải biến nền nông nghiệp, làm cho nông nghiệp thích ứng với yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp, cũng đã phá bỏ những quan hệ sản xuất cũ và dựng nên những quan hệ sản xuất mới: thay thế những người tiểu nông canh tác những mảnh ruộng của chính họ bằng những nhà tư bản kinh doanh từng cánh đồng rộng lớn trên cơ sở lao động làm thuê. Trong công nghiệp cũng vậy, quá trình dựng nên những công trường thủ công và công xưởng cũng đồng thời là quá trình xác lập những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa từ thấp đến cao. Như vậy, chính những lực lượng sản xuất mới trong quá trình nảy sinh và phát triển, đã lần lượt húc đổ những quan hệ sản xuất cũ và xác lập những quan hệ sản xuất mới, lấy đó làm điều kiện cho sự nảy sinh và phát triển của nó. Sức mạnh của quy luật là ở chỗ đó. Tính tất yếu khách quan của lịch sử là ở chỗ đó.

Chủ nghĩa tư bản đã không thể dựng nên nền đại công nghiệp nếu không phá bỏ nền kinh tế tiểu nông thì tại sao chủ nghĩa xã hội lại bắt buộc phải duy trì nền kinh tế tiểu nông trong khi dựng nên nền đại công nghiệp hoặc chỉ được phép cải tạo nền kinh tế tiểu nông sau khi đã xây dựng xong xuôi đâu đấy nền đại công nghiệp? Không gì ảo tưởng hơn khi nghĩ rằng có thể xây dựng được nền đại công nghiệp trên cơ sở của nền kinh tế tiểu nông! Cũng không gì sai lệch hơn khi nghĩ rằng quy luật vận động của lịch sử bắt buộc các lực lượng sản xuất hiện đại chỉ được phép nảy sinh và phát triển trong khuôn khổ những quan hệ sản xuất lỗi thời!

Khẳng định “cách mạng quan hệ sản xuất là bước đi tất yếu để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, đẩy nhanh cách mạng kĩ thuật” không có nghĩa là khẳng định cách mạng quan hệ sản xuất phải “đi trước” cách mạng kĩ thuật. Nói “mở đường” là nói tác dụng của những quan hệ sản xuất tiên tiến – quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất tiên tiến không thể có tác dụng “mở đường” cho lực lượng sản xuất nếu nó tách rời lực lượng sản xuất, đi trước lực lượng sản xuất, nếu nó không phải là hình thức phát triển – và là hình thức phát triển thích hợp nhất – của lực lượng sản xuất. Đảng ta nêu khẩu hiệu “hợp tác hóa đi đôi với thủy lợi hóa”, “hợp tác hóa đi đôi với cải tiến kĩ thuật” là lẽ như vậy. Trên thực tế, địa phương nào biết gắn liền hai cuộc cách mạng đó thì sản xuất phát triển, chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa được củng cố; địa phương nào lập xong hợp tác xã rồi đứng lại ở đó thì chẳng những sản xuất ì ạch mà bản thân hợp tác xã cũng chẳng vững vàng gì. Quan hệ sản xuất tiên tiến mà không có tác dụng mở đường cho lực lượng sản xuất thì còn gì là tiên tiến nữa? Tạo ra những quan hệ sản xuất tiên tiến mà không phát huy vai trò mở đường của nó đối với sản xuất, đối với lực lượng sản xuất, đối với cách mạng kĩ thuật thì có khác gì dựng lên những cái xác không hồn, biến cách mạng quan hệ sản xuất thành một công việc gần như vô nghĩa? Như vậy, do bản chất của nó, do ý nghĩa mở đường của nó, cách mạng quan hệ sản xuất phải được tiến hành đồng thời với cách mạng kĩ thuật, quan hệ sản xuất tiên tiến phải là hình thức phát triển thích hợp nhất của lực lượng sản xuất.

Trong tình hình lực lượng sản xuất đã đạt đến một trình độ xã hội hóa cao thì hình thức phát triển thích hợp nhất của lực lượng sản xuất là những quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở trình độ cao. Song, ở nước ta, những lực lượng sản xuất như thế không có sẵn mà mới đang hình thành. Vì vậy, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng từ hình thức thấp lên hình thức cao, thích ứng với trình độ phát triển và yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ, mỗi khu vực. Đảng ta chủ trương đưa phong trào hợp tác xã hóa nông nghiệp đi từ tổ đổi công lên hợp tác xã cấp thấp rồi lên hợp tác xã cấp cao, từ hợp tác xã quy mô nhỏ lên hợp tác xã quy mô thôn, rồi lên quy mô xã là với ý nghĩa như vậy. Chuyển từ thấp lên cao, điều kiện quyết định nhất phải là trình độ phát triển hay yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Muốn biết một hình thức quan hệ sản xuất nào đó có thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay không, và do đó có thật là hình thức phát triển thích hợp nhất, thuận lợi nhất của lực lượng sản xuất hay không, chỉ cần xem nó có tác dụng mở đường cho lực lượng sản xuất hay không. Từ hợp tác xã quy mô thôn chuyển lên hợp tác xã quy mô xã mà sản xuất không phát triển hơn, cơ sở vật chất – kĩ thuật không phát triển hơn, phân công lao động không phát triển hơn, năng suất lao động không nâng cao hơn, thậm chí mọi cái lại có phần kém hơn trước, thì như vậy, không thể coi hình thức mới này là thích hợp được. Chính vì chưa thích hợp, chưa đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất cho nên nó không có tác dụng mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Trong những trường hợp như vậy, tạm thời lùi trở lại hình thức thấp hơn lại là có lợi cho sản xuất, có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Tính chất cưỡng chế của quy luật khách quan là ở chỗ đó. Tự giác vận dụng quy luật khách quan cũng là ở chỗ đó.

Như trên ta thấy, cách mạng quan hệ sản xuất ở nước ta, dù trong điều kiện một nền sản xuất còn ở trình độ phát triển thấp, vẫn là nhằm tạo ra những quan hệ sản xuất thích hợp nhất cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, đáp ứng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng, chính vì lực lượng sản xuất còn ở trình độ phát triển thấp cho nên:

– Cách mạng quan hệ sản xuất không thể giữ vị trí then chốt trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, vị trí này phải dành cho cách mạng kĩ thuật là cuộc cách mạng có nhiệm vụ dựng nên cái nền móng của xã hội chủ nghĩa. Vị trí quan trọng của cách mạng quan hệ sản xuất là ở chỗ nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra những điều kiện kinh tế thuận lợi nhất để đẩy nhanh cách mạng kĩ thuật.

– Nội dung của cách mạng quan hệ sản xuất chủ yếu không phải là “tước đoạt của những kẻ tước đoạt” mà chủ yếu là xây dựng: từng bước dựng nên những quan hệ sản xuất tiên tiến, xã hội chủ nghĩa, nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa.

– Nhưng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được dựng lên phải thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kì, mỗi khu vực, phải là hình thức phát triển thuận lợi nhất của lực lượng sản xuất ở mỗi thời kì, mỗi khu vực, và do đó phải đi từ hình thức thấp lên hình thức cao. Cách mạng quan hệ sản xuất, do đó cũng phải được tiến hành đồng thời với cách mạng kĩ thuật, kết hợp chắc chắn với cách mạng kĩ thuật và ăn khớp với cách mạng kĩ thuật trên mỗi bước đi cụ thể. Cả hai cuộc cách mạng này đều phải tiến hành liên tục, bền bỉ, trong suốt cả thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Trong khi nhằm mục đích nói trên, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển – thì đồng thời, cách mạng quan hệ sản xuất còn nhằm xóa bỏ bóc lột và mọi nguồn gốc sinh ra bóc lột, xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về mặt kinh tế. Điều này quy định tính chất xã hội chủ nghĩa của bản thân cuộc cách mạng, của nền kinh tế và của xã hội nói chung.

Tác động của cách mạng quan hệ sản xuất đối với cách mạng tư tưởng và văn hóa cũng tức là tác động của cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa – một khi được xây dựng – đối với kiến trúc thượng tầng chung của xã hội: nó tạo ra những điều kiện kinh tế – xã hội làm cơ sở cho sự hình thành tư tưởng và tình cảm mới, xã hội chủ nghĩa.

Cùng với ý nghĩa đó, cách mạng quan hệ sản xuất tác động đến liên minh công nông và chuyên chính vô sản, làm cho liên minh công nông được củng cố, chuyên chính vô sản được tăng cường.

Nhận thức đúng đắn vị trí, ý nghĩa của cách mạng quan hệ sản xuất là điều kiện đầu tiên để thực hành cuộc cách mạng một cách đúng đắn. Coi nhẹ, sao nhãng cách mạng quan hệ sản xuất trong một lúc nào đó, tách rời cuộc cách mạng này với hai cuộc cách mạng kia trong một lúc nào đó, nóng vội chạy theo những hình thức quan hệ sản xuất quá tiên tiến trong một lúc nào đó… đều ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực tiễn của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở nhiều địa phương đã cho ta những bằng chứng khá rõ.

Thực tiễn của phong trào này cũng chứng tỏ rằng trên vấn đề nội dung, phương hướng, bước đi của cách mạng quan hệ sản xuất, đã và đang tồn tại không ít những nhận thức mơ hồ, lệch lạc. Nổi bật là nhận thức cho rằng cải tạo xã hội chủ nghĩa dường như là toàn bộ nội dung của cách mạng quan hệ sản xuất và do đó cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa tức là cơ bản hoàn thành cách mạng quan hệ sản xuất. Đồng chí Lê Duẩn đã rọi ánh sáng vào vấn đề cực kì quan trọng này khi chỉ ra rằng:

“Nội dung của cách mạng quan hệ sản xuất trước tiên là xóa bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và chế độ người bóc lột người gắn liền với thành phần kinh tế đó, cải tạo nền kinh tế cá thể của nông dân thành nền kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa, xác lập chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể. Tuy đó là một sự chuyển biến vô cùng lớn lao trong đời sống xã hội, nhưng đó cũng chưa phải là toàn bộ nội dung của cách mạng quan hệ sản xuất, bởi vì trong lĩnh vực kinh tế, chế độ làm chủ tập thể bao gồm ba mặt: làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ việc quản lý kinh tế và làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động. Vì vậy, tiếp ngay sau việc xác lập quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về tư liệu sản xuất, chúng ta phải giải quyết hàng loạt vấn đề quan trọng khác nữa…”

Để hiểu vấn đề này, cần hiểu cho đúng khái niệm “quan hệ sản xuất”. Mác viết:

“Trong sản xuất, người ta không chỉ tác động vào tự nhiên không thôi, mà còn tác động lẫn nhau nữa. Người ta chỉ sản xuất được khi hợp tác với nhau một cách nào đó và trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và chỉ có trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó thì mới tác động được vào tự nhiên, mới sản xuất được.

Nhìn toàn bộ thì những quan hệ sản xuất họp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội, và nhất là hợp thành xã hội trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo, riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là những toàn bộ quan hệ sản xuất theo loại đó, mà mỗi toàn bộ đó đồng thời lại là đặc điểm của mỗi giai đoạn phát triển riêng biệt trong lịch sử nhân loại”.

Như vậy, khái niệm quan hệ sản xuất có một nội dung rất rộng. Nó là tất cả những quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Những quan hệ đó – theo Xta-lin – bao gồm:

a) các hình thái chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất;

b) địa vị các tập đoàn xã hội khác nhau trong sản xuất và những mối tương quan giữa các tập đoàn ấy ; hay là như Mác nói: “Sự trao đổi hoạt động giữa các tập đoàn với nhau” – địa vị và tương quan đó đều do các hình thái chế độ sở hữu nói trên mà sinh ra;

c) những hình thức phân phối sản phẩm hoàn toàn do quan hệ sản xuất chi phối.

Mác có nói tới “các quan hệ sản xuất cấp hai và cấp ba, nói chung là các quan hệ sản xuất phái sinh, từ chỗ khác chuyển tới, chứ không phải là có trước”.

Như trên ta thấy, chủ nghĩa Mác không hiểu khái niệm “quan hệ sản xuất” chỉ thu gọn trong “chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất”, mặc dù chế độ này bao giờ cũng là một nhân tố cơ bản nhất trong hệ thống các quan hệ sản xuất, nó quyết định tính chất của các quan hệ sản xuất khác. Hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp nói riêng hay cải tạo xã hội chủ nghĩa nói chung mới chỉ là giải quyết xong (về đại thể) vấn đề sở hữu về tư liệu sản xuất: xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất hay quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về mặt tư liệu sản xuất. Làm chủ tập thể về tư liệu sản xuất là tiền đề để làm chủ tập thể trong quá trình sản xuất (trong việc quản lý kinh tế) và trong phân phối sản phẩm. Hơn nữa, nếu không được bổ sung bằng các quyền làm chủ sau này và thể hiện trong các quyền làm chủ đó thì quyền làm chủ tập thể về tư liệu sản xuất cũng dễ trở thành hữu danh vô thực. Vì vậy, nhân dân lao động, ngay sau khi xác lập được quyền làm chủ về tư liệu sản xuất phải bắt tay ngay vào việc xây dựng quyền làm chủ trong quản lý kinh tế và trong phân phối sản phẩm. Ngoài ra vẫn phải tiếp tục củng cố và hoàn thiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tiếp tục việc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở những khu vực và lĩnh vực chưa hoàn chỉnh. Đồng chí Lê Duẩn viết:

“… Tiếp ngay sau việc xác lập quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về tư liệu sản xuất, chúng ta phải giải quyết hàng loạt vấn đề quan trọng khác nữa như: quản lý lao động tập thể và tài sản tập thể như thế nào để mở rộng tái sản xuất nhanh nhất, thực hiện cách mạng kĩ thuật nhanh nhất, phân công lại lao động xã hội hợp lý nhất và đạt năng suất lao động cao nhất; tổ chức nền sản xuất xã hội như thế nào để vừa bảo đảm được sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương lại vừa phát huy đầy đủ quyền làm chủ tập thể của các ngành, các địa phương và mọi người lao động; tiến hành phân phối như thế nào để vừa bảo đảm được tích lũy cho tái sản xuất mở rộng lại vừa cải thiện được đời sống nhân dân, vừa khuyến khích được tính tích cực lao động lại vừa thể hiện được đầy đủ tinh thần xã hội của chủ nghĩa xã hội, vừa chăm lo chu đáo đời sống vật chất của nhân dân lại vừa thúc đẩy được sự nghiệp phát triển văn hóa giáo dục, khoa học kĩ thuật; sử dụng những biện pháp kinh tế và hành chính như thế nào để vừa củng cố và nâng cao chất lượng của các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa, vừa mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, thu hút những người còn làm ăn riêng lẻ vào các hợp tác xã, tăng cường quản lý thị trường, chống mọi hành động đầu cơ, sửa chữa những lệch lạc trong quản lý ruộng đất và quản lý lao động, v.v… Đó là những vấn đề nóng hổi, gay go, phức tạp của cách mạng quan hệ sản xuất đang đặt ra trước mắt chúng ta trong phạm vi toàn quốc cũng như ở mỗi địa phương, mỗi cơ sở sản xuất nhằm xây dựng và hoàn thiện chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong quản lý kinh tế và phân phối sản phẩm lao động, nhằm tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Qua đoạn trích trên đây của đồng chí Lê Duẩn, ta thấy có 4 phương hướng lớn được nêu lên nhằm tiếp tục cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất.

Thứ nhất là: “Quản lý lao động tập thể và tài sản tập thể như thế nào để mở rộng tái sản xuất nhanh nhất, thực hiện cách mạng kĩ thuật nhanh nhất, phân công lại lao động xã hội hợp lý nhất và đạt năng suất lao động cao nhất”. Điểm này nói đến xây dựng chế độ làm chủ tập thể trong quản lý kinh tế theo hướng nào – theo hướng có lợi nhất cho sản xuất, phát huy được đầy đủ nhất tác dụng “mở đường” của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với lực lượng sản xuất, đối với cách mạng kĩ thuật.

Từ kinh tế cá thể chuyển sang kinh tế tập thể đó là sự chuyển biến về chất không những về mặt sở hữu, mà cả về mặt quản lý nữa. Người nông dân trước đây chỉ quản lý một vài mẫu ruộng, nay phải quản lý hàng trăm mẫu ruộng, hàng trăm lao động. Nếu không có một công tác tổ chức rất tỉ mỉ, rất chu đáo, rất khoa học thì không thể quản lý nổi, càng không thể quản lý có hiệu quả kinh tế cao. Tập hợp hàng trăm lao động vào một đơn vị sản xuất, điều đó cho phép tạo ra một sức sản xuất mới, một năng suất lao động cao hơn, nhờ ở ưu thế của lao động hiệp tác và ưu thế của phân công lao động, song, đó mới chỉ là khả năng. Muốn biến khả năng này thành hiện thực thì phải biết tổ chức – tổ chức sự hợp tác và tổ chức sự phân công. Tổ chức còn có nghĩa là quy định mọi việc thành nội quy, điều lệ, thể lệ, chế độ, định mức, quy trình, quy phạm hợp lý nhất để mọi người đều có thể và phải làm theo những tiêu chuẩn thống nhất, đều ra sức sử dụng lao động của mình một cách hiệu quả nhất. Có người lầm tưởng rằng hễ cứ lập hợp tác xã thì tự khắc có được sức sản xuất mới, tự khắc có được năng suất lao động cao; đến khi không đạt được như thế thì quay ra nghi ngờ hợp tác xã, chê bai hợp tác xã. Thực ra lỗi đâu phải ở bản thân hợp tác xã! Chế độ này luôn luôn mang trong lòng nó ưu thế của lao động hợp tác và của phân công lao động. Vấn đề là ở chỗ chúng ta có biết tổ chức, biết quản lý, nghĩa là biết khai thác những nguồn sức mạnh tiềm tàng ấy của lao động tập thể hay không. Thiếu công tác tổ chức này thì chẳng những sức mạnh tiềm tàng của lao động tập thể đã không khai thác được mà ngay cái nhịp điệu cũ của lao động cá thể cũng không duy trì nổi.

Đối với tài sản tập thể cũng vậy. Tập trung một số lượng lớn tư liệu sản xuất vào cùng một đơn vị sản xuất, điều đó cho phép sử dụng tư liệu sản xuất một cách hợp lý nhất, tiết kiệm nhất, có hiệu quả kinh tế nhất. Vấn đề chỉ là ở chỗ biết quản lý, biết khai thác những ưu thế vốn có của đại sản xuất, làm cho những khả năng ấy biến thành hiện thực. Đối với một hộ nông dân cá thể chỉ có một vài mẫu ruộng trong tay thì không phải lúc nào cũng lựa chọn được đất thích hợp cho tất cả các loại cây cần phải trồng: lúa, ngô, khoai, lạc, đỗ… Nhưng đối với một hợp tác xã có hàng trăm mẫu trong tay, gồm đủ loại chân ruộng cao thấp khác nhau, cấu tạo thổ nhưỡng khác nhau thì điều kiện để lựa chọn thuận lợi hơn nhiều… Vấn đề là ở chỗ những người chủ của hợp tác xã có thông thạo từng chân ruộng của mình hay không, có chịu tiến hành công việc lựa chọn này một cách chu đáo nhất hay không, có biết nâng niu quý trọng tài sản tập thể hay không. Ruộng tốt quanh làng thì đem đào ao, vượt đất, làm nhà; dược mạ thì đem làm vườn hoa, bãi bóng; ruộng nào xấu thì mặc sức bỏ hóa… quản lý tài sản tập thể như thế thì trách nào hợp tác xã chẳng làm ăn thua kém!

Tư liệu sản xuất đã là sở hữu tập thể của xã viên thì xã viên phải làm chủ tập thể việc quản lý hợp tác xã. Để bảo đảm quyền làm chủ tập thể thì chế độ quản lý phải xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Thể hiện nguyên tắc này thành thể lệ, chế độ, nội quy đã là việc phức tạp, đòi hỏi những công phu. Biến nguyên tắc này thành đời sống của hợp tác xã trong điều kiện chúng ta đang từ sản xuất nhỏ, cá thể tiến lên từ một xã hội thuộc địa, phong kiến thoát thai ra, lại là một cuộc đấu tranh gay go kiên trì. Một mặt phải đấu tranh chống những hành động vi phạm dân chủ như: độc đoán, lộng hành, áp chế dân chủ của xã viên, sử dụng tùy tiện tài sản của tập thể, v.v… Mặt khác, phải đấu tranh chống những hành động làm yếu tập trung như: tự do tản mạn, không chấp hành kỷ luật lao động, không theo đúng các quy trình, quy phạm trong sản xuất, ít chăm lo cho kinh tế tập thể mà chỉ chăm lo cho kinh tế gia đình, v.v… Không đấu tranh chống những di sản này của quá khứ thì không thể xây dựng, củng cố được chế độ quản lý xã hội chủ nghĩa, không thể tăng cường được kinh tế tập thể.

“Tổ chức nền sản xuất xã hội như thế nào để vừa bảo đảm được sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương lại vừa phát huy đúng đắn quyền làm chủ tập thể của các ngành, các địa phương và mọi người lao động”, đó là phương hướng lớn thứ hai nhằm tiếp tục cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất. Nó đặt ra vấn đề quản lý không phải một đơn vị sản xuất, một hợp tác xã nông nghiệp, mà là toàn bộ nền kinh tế quốc dân xem như một chỉnh thể. Nó xử lý mối quan hệ kinh tế không phải giữa hàng trăm người trong cùng một đơn vị sản xuất mà là giữa hàng triệu người thuộc nhiều đơn vị sản xuất, nhiều cấp, nhiều ngành khác nhau nhưng lại gắn bó với nhau thành một khối thống nhất bởi chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa. Chế độ này cho phép chúng ta và đòi hỏi chúng ta phải xem toàn bộ nền kinh tế quốc dân như một cơ thể duy nhất, được điều khiển theo một kế hoạch thống nhất. Bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất – đó là cấp Trung ương đại diện cho toàn dân. Mặt khác, chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa lại đòi hỏi quyền làm chủ tập thể của mọi người dân lao động, của mọi cấp, mọi ngành trong quản lý kinh tế cũng phải được bảo đảm. Vì vậy, phải xây dựng một guồng máy quản lý kinh tế, một hệ thống kế hoạch hóa và quản lý kinh tế có khả năng bảo đảm cho hoạt động sản xuất của hàng triệu người ăn khớp với nhau một cách nhịp nhàng theo một kế hoạch thống nhất, đồng thời vẫn phát huy được tính chủ động sáng tạo của mọi cấp, mọi ngành, mọi người lao động. Đó là một nhiệm vụ hết sức phức tạp. Nhấn mạnh quá mức tập trung thống nhất thì sẽ đi đến tập trung quan liêu, gò bó bên dưới, hạn chế quyền làm chủ tập thể và tính chủ động sáng tạo của quần chúng lao động; hậu quả là sản xuất trì trệ, cằn cỗi, đơn điệu. Nhưng, chỉ một chiều nhấn mạnh tính chủ động sáng tạo của quần chúng, của cơ sở thì sẽ đi đến tản mạn, vô chính phủ; hậu quả là sản xuất mất cân đối, đổ vỡ; đi xa hơn nữa thì ngay cả bản chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế cũng không còn giữ được nữa.

Phương hướng thứ ba đề cập đến vấn đề phân phối sản phẩm: “Tiến hành phân phối như thế nào để vừa đảm bảo được tích lũy cho tái sản xuất mở rộng lại vừa cải thiện được đời sống của nhân dân, vừa khuyến khích được tính tích cực lao động lại vừa thể hiện được đầy đủ tinh thần xã hội của chủ nghĩa xã hội, vừa chăm lo chu đáo đời sống vật chất của nhân dân lại vừa thúc đẩy được sự nghiệp phát triển văn hóa giáo dục, khoa học kĩ thuật.”

Quan hệ sản xuất quyết định quan hệ phân phối. Nhân dân lao động đã làm chủ trong sản xuất thì nhân dân lao động cũng làm chủ trong phân phối. Quyền làm chủ này biểu hiện ở chỗ: nhân dân lao động là người hưởng mọi thành quả lao động, không còn người bóc lột người. Song không phải ai cũng hưởng như ai, mà người nào làm nhiều phải được hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức mà không làm thì không hưởng. Đó là nguyên tắc, là tất yếu khách quan trong xã hội xã hội chủ nghĩa – giai đoạn đầu của xã hội cộng sản. Quán triệt nguyên tắc này trong chính sách phân phối thì khuyến khích được tính tích cực lao động của mọi người, thúc đẩy được sản xuất phát triển. Ngược lại, coi thường nguyên tắc này, rơi vào khuynh hướng bình quân chủ nghĩa thì kết quả sẽ là: người làm tích cực thì không được khuyến khích mà người lười biếng thì lại được dung túng. Nếu mọi người nông dân đều được hưởng một “định suất” lương thực xấp xỉ bằng nhau, mọi người công nhân đều được hưởng một mức lương xấp xỉ bằng nhau, bất kể lao động nhiều hay ít, tốt xấu như thế nào, thì hậu quả sản xuất sẽ rất tai hại. Một chế độ phân phối không có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển thì đó không phải là một chế độ phân phối thích hợp. Chế độ ấy tất yếu sẽ bị loại bỏ.

Đã phân phối theo lao động thì không khỏi có sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa người này và người kia; tình trạng này chỉ có thể xóa bỏ được khi nào xã hội đạt đến giai đoạn “làm tùy sức, hưởng theo nhu cầu”. Tuy nhiên, một sự chênh lệch quá đáng về thu nhập và mức sống giữa người này và người kia lại là không phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội, không phù hợp với chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa. Nó dẫn tới chỗ phân chia nhân dân lao động thành lớp người có đặc quyền hưởng thụ lớn thành quả của chủ nghĩa xã hội và lớp người ít may mắn hơn, điều này đi ngược với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Nó ảnh hưởng tiêu cực đến nhiệt tình lao động của lớp người sau, hạn chế khả năng phát triển của họ và con em họ, qua đó mà hạn chế sự phát triển sản xuất, hạn chế sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đi xa hơn nữa thì chủ nghĩa xã hội và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa chỉ còn là một tấm màn che cho một sự phân phối thật sự tư sản.

Nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong phân phối, phải hết sức chú trọng đến tích lũy để bảo đảm mở rộng tái sản xuất, đẩy mạnh cách mạng kĩ thuật.

Đời sống của nhân dân ta vốn đã thấp, lại bị ảnh hưởng của nhiều năm chiến tranh gay go, ác liệt. Vì vậy, chăm lo đời sống của nhân dân một cách có hệ thống, từng bước, có trọng điểm là một nhiệm vụ hết sức bức thiết. Ngoài ý nghĩa cao cả là phục vụ nhân dân, phục vụ con người, những chi phí tiêu dùng này còn có ý nghĩa sản xuất nữa: nó bảo đảm tái sản xuất ra sức lao động, bồi dưỡng và đào tạo ra những người lao động nắm được khoa học kĩ thuật và có ý thích giác ngộ xã hội chủ nghĩa cao.

Xây dựng một hệ thống những quan hệ phân phối như trên, nhất là với một nguồn thu nhập tương đối eo hẹp mà vừa phải bảo đảm tích lũy, vừa phải chăm lo đời sống, thì đó là một nhiệm vụ gay go, phức tạp, đồng thời cũng hết sức quan trọng. Phân phối không đúng thì không những ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, đến đời sống, mà ảnh hưởng tiêu cực đến ngay cả những trận địa của chủ nghĩa xã hội nữa.

Phương hướng lớn thứ tư nhằm vào việc hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, cụ thể là: “Vừa củng cố và nâng cao chất lượng của các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa, vừa mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, thu hút những người còn làm ăn riêng lẻ vào các hợp tác xã, tăng cường quản lý thị trường, chống mọi hành động đầu cơ, sửa chữa những lệch lạc trong quản lý ruộng đất và quản lý lao động, v.v…”. Như ta thấy, nhiệm vụ này cũng hết sức nặng nề. Chỉ nhìn vào con số 80-90% nông dân và thợ thủ công đã được hợp tác hóa để đi đến kết luận rằng nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa chẳng còn gì là đáng kể thì đó là một lối nhìn hời hợt. Thực tiễn chứng minh rằng củng cố hợp tác xã còn công phu, lâu dài hơn rất nhiều so với việc thành lập hợp tác xã. Củng cố chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất (bằng pháp luật, điều lệ, nội quy cũng như bằng giáo dục ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa) còn công phu, lâu dài hơn là dựng lên chế độ đó. Đấu tranh chống những tư tưởng, tâm lý, thói quen của nền tiểu sản xuất và của chủ nghĩa tư bản xa lạ với chế độ kinh tế mới là một cuộc đấu tranh rất gay go, lâu dài. Bằng tấm gương thực tế, thu hút những người còn làm ăn riêng lẻ vào hợp tác xã cũng không phải là một công việc đơn giản.

Như vậy, cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa mới chỉ là bước đầu của cuộc cách mạng quan hệ sản xuất. Tiếp theo bước đó là cả một loạt nhiệm vụ rất nặng nề. Xây dựng chế độ quản lý ở từng đơn vị sản xuất, xây dựng hệ thống kế hoạch hóa và quản lý từng ngành kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xây dựng chế độ phân phối ở từng đơn vị sản xuất và trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân; củng cố chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa mới được dựng lên; tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa ở những lĩnh vực và khu vực chưa hoàn thành; đấu tranh bằng mọi biện pháp kinh tế, giáo dục, hành chính, chống lại những tư tưởng và thói quen của quá khứ tác hại đến chế độ kinh tế mới, v.v… Qua nội dung như trên của cách mạng quan hệ sản xuất, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn luận điểm của đồng chí Lê Duẩn nói rằng nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là tổ chức, xây dựng, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa. Cũng qua nội dung nêu trên, chúng ta càng hiểu rõ hơn vị trí của cách mạng quan hệ sản xuất ở nước ta, sự cần thiết phải tiến hành cuộc cách mạng đó một cách liên tục, bền bỉ đồng thời với hai cuộc cách mạng kia, cùng những nhiệm vụ nóng hổi đang đặt ra trước mắt chúng ta, trong phạm vi toàn quốc cũng như ở mỗi địa phương, mỗi cơ sở sản xuất.

Về cách mạng kĩ thuật

Nói đến cách mạng kĩ thuật, đến công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đến cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội tức là nói đến cái cơ bản nhất của việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Lênin đã chỉ ra rằng: “Nếu đứng về phía tình hình lực lượng sản xuất mà xét, tức là đứng ở chỗ cân nhắc toàn bộ các tiêu chuẩn cơ bản của sự phát triển xã hội mà xét, thì đại công nghiệp là cơ sở tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa”. Với quan điểm đó, Lênin đã đưa ra công thức nổi tiếng: “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền xô viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”

Sau khi đã dẫn ra công thức của Lênin, đồng chí Lê Duẩn viết:

“Nói điện khí hóa là nói nền đại công nghiệp xây dựng trên cơ sở điện khí hóa, nói cơ sở vật chất của chế độ xã hội mới…Từ sản xuất nhỏ tiến lên, cái thiếu thốn nghiêm trọng nhất của chúng ta hiện nay là cái mà Lênin gọi là “điện khí hóa”. Chỉ có trên cơ sở điện khí hóa thì mới củng cố được chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, khối liên minh công nông và nền chuyên chính vô sản, gột sạch được tâm lý và tập quán sản xuất nhỏ, củng cố và phát triển được tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mang lại cho nhân dân lao động cơm no, áo ấm và đời sống văn minh, làm cho nhân dân lao động không những làm chủ được xã hội mà còn làm chủ được thiên nhiên. Chính trên những ý nghĩa cực kì quan trọng đó mà Đảng ta khẳng định vị trí “then chốt” của cách mạng kĩ thuật”.

Phải “đứng về phía tình hình lực lượng sản xuất mà xét, tức là đứng ở chỗ cân nhắc toàn bộ các tiêu chuẩn cơ bản của sự phát triển xã hội mà xét” – như Lênin đã làm – mới thấy được hết vị trí then chốt của cách mạng kĩ thuật ở nước ta. Trong điều kiện một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nói xây dựng chủ nghĩa xã hội mà xem thường kĩ thuật, xem thường cách mạng kĩ thuật thì chỉ là không tưởng. Chủ nghĩa xã hội không phải chỉ là chuyên chính vô sản, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Xét cho cùng thì chủ nghĩa xã hội chính là “do nền đại công nghiệp cơ khí sản sinh ra”, và “ngoài đại công nghiệp ra, người ta không thể có cách nào khác để xây dựng chủ nghĩa xã hội được”.

Chúng ta thực hiện cách mạng kĩ thuật theo phương hướng, bước đi như thế nào? Đồng chí Lê Duẩn viết:

“Hiện nay, trong phe ta và cả ở nhiều nước khác trên thế giới, đang diễn ra một cuộc cách mạng mới về khoa học và kĩ thuật đem lại cho loài người nhiều biến đổi quan trọng trong việc chinh phục thiên nhiên cũng như trong quan hệ xã hội. Vì vậy, lực lượng sản xuất của nước ta vừa phải phát triển tuần tự theo quy luật chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, vừa có thể và cần phải phát triển nhảy vọt lên cơ giới hóa và tự động hóa, trước hết là cơ giới hóa. Một mặt, phải biết tận dụng mọi khả năng sẵn có của sản xuất thủ công, từng bước đưa nó lên cơ giới hóa và nửa cơ giới; ra sức phát triển công nghiệp địa phương, kết hợp công nghiệp địa phương với nông nghiệp đã phân công lại lao động xã hội, tạo điều kiện ra đời cho nền công nghiệp lớn. Mặt khác, dựa vào ưu thế vốn có của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, sự giúp đỡ tích cực của các nước anh em và sự thay đổi quốc tế, ra sức xây dựng nền công nghiệp lớn với kĩ thuật hiện đại, tranh thủ thực hiện những bước nhảy vọt về kinh tế, kĩ thuật, và bằng những bước nhảy vọt mà thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân tiến lên hiện đại hóa. Đó là cách đi tốt nhất để thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng kĩ thuật, mau chóng dựng lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và hiện đại hóa ở nước ta”.

Như mọi người đều biết, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta đem so với các nước tư bản thì lạc hậu đến vài thế kỷ. Cuộc cách mạng kĩ thuật nhằm biến lao động thủ công thành lao động cơ giới hóa mà bây giờ chúng ta đang làm thì chủ nghĩa tư bản đã tiến hành từ thế kỷ 18-19. Nhưng cũng chính vì thế mà chúng ta khỏi phải trải qua những bước mò mẫm về kĩ thuật, trái lại lại có thể lợi dụng những thành tựu của kĩ thuật hiện đại để tiến những bước nhảy vọt.

Chúng ta có điều kiện để thực hiện những bước nhảy vọt đó. Bên ngoài, có phe xã hội chủ nghĩa sẵn sàng giúp đỡ chúng ta về kĩ thuật cũng như về tài chính. Trong nước, chúng ta có chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa có khả năng tập trung những nguồn vốn nhỏ bé, rải rác khắp nước thành những nguồn vốn to lớn. Về điều kiện bên ngoài, cần phải kể đến một nhân tố nữa: sự trao đổi quốc tế với những nước không phải xã hội chủ nghĩa, kể cả những nước đế quốc chủ nghĩa là những kẻ mới đây không lâu còn thực hành chính sách bao vây về kĩ thuật đối với các nước chậm phát triển. Trong tình hình có phe xã hội chủ nghĩa không những sẵn sàng giúp đỡ các dân tộc lạc hậu mà còn đạt đến một trình độ phát triển cao về kinh tế – kĩ thuật nữa, trong tình hình cạnh tranh gay gắt về thị trường giữa các tập đoàn tư bản với nhau và với đà tiến như vũ bão của kĩ thuật hiện đại, các nước này, vì lợi nhuận của chúng, không thể không thực hành một chính sách “thực tế” hơn, bao gồm cả việc xuất khẩu kĩ thuật sang các nước chậm phát triển.

Với những điều kiện như trên, chúng ta có thể và cần phải tranh thủ kĩ thuật hiện đại của thế giới để mau chóng dựng lên nền đại công nghiệp cơ khí của nước ta, và dựa vào những bước nhảy vọt đó mà đẩy nhanh quá trình cách mạng kĩ thuật trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đương nhiên, khả năng về vốn liếng của chúng ta có hạn, nhất là vào lúc ban đầu. Vì vậy, không thể không lựa chọn những mục tiêu cần ưu tiên trang bị kĩ thuật hiện đại. Nói chung, đó phải là những ngành công nghiệp then chốt, có tác dụng quyết định sự tiến bộ kĩ thuật của toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc đáp ứng những nhu cầu quan trọng nhất của đời sống, những ngành này hình thành cái mà chúng ta vẫn gọi là “công nghiệp trung ương” với ý nghĩa là nó do trung ương quản lý. Tập trung đầu tư vào những ngành công nghiệp then chốt, phần lớn là những ngành thuộc công nghiệp nặng như điện, than, cơ khí, hóa chất, luyện kim, v.v… nhưng cũng có một số là thuộc công nghiệp nhẹ như dệt, giấy, chế biến thực phẩm, v.v…

Xuất phát từ kĩ thuật của một nền nông nghiệp thô sơ, cuộc cách mạng kĩ thuật ở nước ta không thể không trải qua giai đoạn chuyển từ lao động thủ công lên cơ giới hóa. Trong lúc nó làm nhiệm vụ của cuộc “cách mạng công nghiệp” thế kỷ 18-19 thì các nước đã tiến những bước rất dài trong “cuộc cách mạng kĩ thuật lần thứ hai” mà nội dung chủ yếu là tự động hóa. Trong chừng mực nhất định (ở một số xí nghiệp nhất định, một số dây chuyền sản xuất nhất định), cuộc cách mạng kĩ thuật của nước ta có thể lợi dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng kĩ thuật lần thứ hai này, và như vậy, nhảy vọt luôn từ kĩ thuật thủ công lên kĩ thuật tự động hóa. Điều này đương nhiên không thể thực hiện được một cách rộng rãi, vì những hạn chế về kinh tế cũng như kĩ thuật. Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cuộc cách mạng kĩ thuật ở nước ta vẫn là trang bị máy móc một cách phổ biến cho lao động, thực hiện bước nhảy vọt lớn từ kĩ thuật thủ công lên kĩ thuật cơ giới hóa.

Nắm bắt trình độ kĩ thuật hiện đại của thế giới để thực hiện những bước nhảy vọt về kinh tế – kĩ thuật, đó là cách đi nhanh nhất lên hiện đại hóa. Song, khả năng của chúng ta có hạn (nhất là về tài chính), vì vậy không thể ngay một lúc trang bị kĩ thuật hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế, mà chỉ có thể thực hiện từng bước, có trọng điểm, bắt đầu từ những xí nghiệp then chốt. Trong khi đó thì đại bộ phận những người lao động vẫn phải tiếp tục tiến hành sản xuất bằng những công cụ thủ công, nhiều khi rất thô sơ. Đặc biệt là ngành công nghiệp, bao gồm tới 80% tổng số người lao động sản xuất, vẫn phải dựa vào kĩ thuật thủ công là chính để không những nuôi sống cả dân tộc mà còn nuôi sống cả nền công nghiệp nữa. Chúng ta cam chịu tình cảnh đó trong nhiều năm nữa, đợi cho đến khi nền nông nghiệp lớn đủ sức giải phóng cho chúng ta, hay là tìm cách nào khác để từng bước thoát ra khỏi tình cảnh đó? Đồng chí Lê Duẩn viết: “Phải biết tận dụng mọi khả năng sẵn có của sản xuất thủ công, từng bước đưa nó lên nửa cơ giới hóa và cơ giới hóa; ra sức phát triển công nghiệp địa phương, kết hợp công nghiệp địa phương với nông nghiệp để phân công lại lao động xã hội, tạo điều kiện ra đời cho nền công nghiệp lớn”.

Phương hướng trên đây mở ra một địa bàn thật sự rộng lớn cho cuộc cách mạng kĩ thuật. Mục tiêu của cuộc cách mạng không còn bó hẹp trong một số ngành công nghiệp then chốt nữa, mà cùng một lúc có thể hướng vào tất cả các ngành kinh tế khác, nhất là nông nghiệp. Sự tiến bộ kĩ thuật và mức độ nâng cao năng suất lao động mà nó tạo ra ở ngành này không cao, nhưng phạm vi thì lại rất rộng lớn, do đó, kết quả gộp chung lại cũng sẽ rất lớn. Nếu năng suất lao động của 5 triệu nông dân nhờ cải tiến công cụ mà tăng lên được 1% thì kết quả này gộp chung lại cũng bằng một bước nhảy vọt lớn trong công nghiệp khiến cho năng suất lao động của 5.000 công nhân tăng lên 1.000%.

Địa bàn rộng, mục tiêu phân tán, nhưng lực lượng tiến hành cuộc cách mạng thì lại không vì thế mà bị suy yếu đi. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta tận dụng được những khả năng sẵn có của sản xuất thủ công, đặc biệt là lực lượng tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp to lớn vẫn gọi chung là công nghiệp địa phương. Nếu mượn hình ảnh quân sự thì có thể ví lực lượng này với bộ đội địa phương và dân quân du kích, trong khi bộ đội chủ lực là công nghiệp trung ương. Như mọi người đều biết, sự bố trí phân tán bộ đội địa phương và dân quân du kích chính là điều kiện để bộ đội chủ lực tập trung vào những mục tiêu chiến lược quan trọng nhất. Trong cách mạng kĩ thuật cũng vậy. Chúng ta ra sức phát triển công nghiệp địa phương thành một mạng lưới bao trùm khắp nước, phát huy tác dụng của công nghiệp địa phương trong việc cải tiến công cụ một cách phổ biến và trang bị một số máy móc tương đối đơn giản cho nông nghiệp, như vậy thì công nghiệp trung ương không bị phân tán lực lượng, mà nông nghiệp thì vẫn từng bước cải tiến được kĩ thuật, nâng cao được năng suất lao động, trên cơ sở đó mà phát triển ngành nghề, phân công lại lao động xã hội, tạo ra những điều kiện cần thiết cho công nghiệp lớn phát triển mạnh mẽ. Bản thân công nghiệp địa phương thì lúc đầu tận dụng những công cụ thủ công sẵn có, những máy móc tương đối lạc hậu, dần dần nhờ khả năng tự trang bị của mình và nhờ sự viện trợ ngày càng lớn của công nghiệp trung ương mà từng bước vươn lên nửa cơ giới hóa và cơ giới hóa.

Con đường phát triển “tuần tự” như trên – như đồng chí Lê Duẩn chỉ ra – chính là con đường phát triển thông thường của lực lượng sản xuất, theo quy luật chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Thật vậy, lịch sử phát triển của kĩ thuật đã từng diễn ra một cách tuần tự, từ những công cụ thủ công tiến lên những công cụ được cải tiến nhờ có sự phân công chuyên môn hóa diễn ra trong công trường thủ công, rồi từ những công cụ cải tiến này tiến lên máy móc; từ những máy móc mới đầu còn tương đối đơn giản, sau tinh vi dần lên, cuối cùng thành những máy móc tự động và những hệ thống máy móc tự động; từ chỗ mới đầu còn kết hợp máy móc với kĩ thuật thủ công (nửa cơ giới hóa) sau tiến dần lên cơ giới hóa hoàn toàn quá trình sản xuất, mới đầu còn kết hợp cơ giới hóa với tự động hóa một phần, sau biến dần lên tự động hóa hoàn toàn. Sự phát triển của kĩ thuật trong nông nghiệp, nếu kể đến kĩ thuật chăm sóc cây trồng và gia súc dựa trên những hiểu biết sinh lý của chúng, thì chủ yếu là do sự phát triển của kĩ thuật trong công nghiệp quyết định, vì vậy, nó cũng diễn ra tuần tự theo sự phát triển của kĩ thuật trong công nghiệp và dưới điều kiện kết hợp chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp. Khi công nghiệp còn là những lò rèn thủ công thì cái mà nó có khả năng cung cấp cho nông nghiệp không ngoài những nông cụ do cá nhân sử dụng bằng tay. Việc sử dụng phổ biến những nông cụ cải tiến bằng kim khí có kích thước lớn hơn hoặc kĩ thuật chế tạo phức tạp hơn gắn liền với thời kì công trường thủ công, thậm chí với sự xuất hiện của công xưởng. Chỉ đến khi nền công nghiệp nặng đã thật sự lớn mạnh rồi thì vấn đề cơ giới hóa nông nghiệp mới được đặt ra và giải quyết từng bước. Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất trong công nghiệp cũng như trong nông nghiệp không thể không diễn ra một cách tuần tự, từ nhỏ lên lớn, từ kĩ thuật thủ công, trải qua nhiều bước quá độ, lên cơ giới hóa, rồi lên tự động hóa. Ở đây, những sự chuyển biến về chất (nhảy vọt) đạt được là nhờ trải qua những sự tích lũy về lượng, cũng tức là trải qua quá trình phát triển tuần tự từ thấp lên cao.

Qua phát triển tuần tự nói trên không phải diễn ra một cách cô lập, mà là trong mối quan hệ rất mật thiết với sự phát triển nhảy vọt của công nghiệp trung ương. Nó luôn luôn được sự hỗ trợ – và hỗ trợ ngày càng lớn – của công nghiệp trung ương. Mỗi bước nhảy vọt trong công nghiệp điện, than, cơ khí, hóa chất, v.v… đều gây ra những phản ứng dây chuyền ít nhiều quan trọng về sản xuất cũng như về kĩ thuật trong nông nghiệp và công nghiệp địa phương. Vì thế mà ở những ngành này, sự phát triển tuần tự luôn luôn xen kẽ với những bước nhảy vọt, về mặt này hay mặt khác, và do đó, được đẩy nhanh thêm. Ngược trở lại, mỗi bước phát triển tuần tự trong nông nghiệp hay công nghiệp địa phương đều làm tăng thêm những điều kiện thuận lợi cho công nghiệp trung ương phát triển, do đó, làm cho những bước nhảy vọt về kinh tế – kĩ thuật ngày càng quan trọng hơn. Cứ như thế, hai quá trình này hỗ trợ nhau, thúc đẩy lẫn nhau, làm cho kĩ thuật nước ta cải biến với tốc độ ngày càng nhanh và cách mạng kĩ thuật hoàn thành thắng lợi trong một thời gian lịch sử tương đối ngắn.

Về cách mạng tư tưởng và văn hóa

Như trên đã trình bày, vai trò quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hóa là ở chỗ: nó dựng lên kiến trúc thượng tầng của xã hội xã hội chủ nghĩa; nó đào tạo ra những con người có nhiệm vụ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; nó đem lại giá trị chân chính cho con người, làm cho con người phát triển toàn diện, trở thành chủ thể có ý thức trong việc sáng tạo ra lịch sử của mình.

Như vậy, cách mạng tư tưởng và văn hóa – cũng như cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng kĩ thuật – là động lực hết sức mạnh mẽ của lịch sử. Nó cũng đồng thời là động lực hết sức mạnh mẽ của chính ngay cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng kĩ thuật.

Đương nhiên, cách mạng tư tưởng và văn hóa chỉ có thể phát huy vai trò của nó trong mối quan hệ tương hỗ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng kĩ thuật. Mối quan hệ đó bao hàm trong quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Không có cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa thì cũng không có đất cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa nảy sinh và phát triển, trở thành tư tưởng của xã hội, của thời đại. Không có nền đại công nghiệp cơ khí phát triển thì không thể đạt tới trình độ cao về văn hóa, khoa học và kĩ thuật phổ biến trong dân cư. Vì vậy, chỉ có trên cơ sở những thành tựu của cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng kĩ thuật thì cách mạng tư tưởng và văn hóa mới đạt được quy mô rộng lớn và thành quả của nó mới thật sự bền vững.

Song, điều đó không có nghĩa là gán cho ý thức xã hội một vai trò bị động, tiêu cực. Đúng là với sự ra đời của nó, vận mệnh của nó là do tồn tại xã hội quyết định. Nhưng, một khi đã ra đời thì ý thức xã hội lại tác động rất mạnh mẽ đến tồn tại xã hội. Nó cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội, của lịch sử, nếu đó là ý thức lạc hậu, phản động. Nó thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội, của lịch sử, nếu đó là ý thức tiên tiến, cách mạng. Tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hóa chính là trang bị cho nhân dân lao động ý thức tiên tiến, cách mạng, khắc phục ý thức lạc hậu, phản động, nhằm phát huy đến mức cao nhất tính chủ động, tự giác, sáng tạo của nhân dân lao động – tính chủ động, tự giác, sáng tạo này lần đầu tiên trong lịch sử đã trở thành hiện thực nhờ có chuyên chính vô sản.

Là sản phẩm của lịch sử, con người cũng chính là kẻ sáng tạo ra lịch sử. Song không phải lúc nào con người cũng sáng tạo ra lịch sử có ý thức như nhau, một cách chủ động, tự giác như nhau. Ăng-ghen viết:

“Khi con người hình thành là chúng ta đã bước vào lịch sử. Thú vật cũng có một lịch sử, lịch sử dòng dõi của chúng và lịch sử phát triển từng bước của chúng lên tới trạng thái hiện nay. Nhưng chúng không tạo ra lịch sử ấy, và nếu chúng tham gia vào việc tạo ra lịch sử của chúng tới một mức độ nào đó thì không phải là chúng hiểu biết được điều đó hoặc muốn điều đó. Ngược lại, con người càng đi xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp, bao nhiêu thì tự bản thân nó, nó càng tạo ra một cách có ý thức lịch sử của nó bấy nhiêu; ảnh hưởng của các tác dụng bất ngờ, của các lực lượng không kiểm soát được, đối với lịch sử nó càng giảm đi bấy nhiêu; kết quả lịch sử ngày càng phù hợp một cách chính xác hơn với mục đích đã được định trước. Nhưng nếu chúng ta dùng tiêu chuẩn đó để xét lịch sử của loài người, để xét ngay cả lịch sử của những dân tộc phát triển nhất trong thời đại của chúng ta thì ở đây, chúng ta cũng thấy rằng vẫn còn có sự chênh lệch lớn giữa những mục đích đã định trước với những kết quả đã đạt được, rằng các tác động bất ngờ vẫn còn chiếm ưu thế, rằng các lực lượng không kiểm soát được vẫn còn mạnh hơn những lực lượng được vận dụng theo một kế hoạch. Không thể nào khác thế được, một khi mà sự hoạt động lịch sử chủ yếu nhất của người ta, sự hoạt động đã đưa con người từ một trạng thái thú vật lên trạng thái người, sự hoạt động làm cơ sở vật chất cho tất cả các hoạt động khác của con người – tức là tự sản xuất ra tất cả những cái cần thiết cho sự sống của con người, tức là sự sản xuất xã hội hiện nay – vẫn còn phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau của các tác dụng vô tình của các lực lượng không kiểm soát được, và chỉ đạt mục đích mong muốn trong trường hợp đặc biệt còn thông thường ra, thì lại dẫn tới một kết quả ngược lại với ý muốn… Chỉ có tổ chức một cách tự giác nền sản xuất xã hội sao cho sản xuất và phân phối được kế hoạch hóa, thì về mặt xã hội, mới nâng được loài người lên trên giới súc vật, cũng như bản thân lao động đã nâng con người lên, về phương diện sinh lý. Sự phát triển lịch sử làm cho một tổ chức như thế ngày càng cần thiết và cũng ngày càng có thể thực hiện được”.

Như vậy, với việc “tổ chức một cách tự giác nền sản xuất xã hội”, chủ nghĩa xã hội đã làm cho con người lần đầu tiên trong lịch sử, có khả năng sáng tạo ra lịch sử của mình một cách hoàn toàn có ý thức, chủ động, tự giác, và vì thế, đã “nâng con người lên trên giới súc vật”. Tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa chính là nhằm phát huy đến mức cao nhất tính ưu việt đó của chủ nghĩa xã hội: làm cho con người nhận thức được và lợi dụng được các quy luật của xã hội và của tự nhiên để chủ động, tự giác sáng tạo ra lịch sử của mình, “trở thành chủ thể có ý thức trong việc sáng tạo ra lịch sử của mình”. Với ý nghĩa đó, nó là động lực, là đòn bẩy thật sự của việc cải tạo xã hội, cải tạo thế giới.

Như trên đã dẫn, đồng chí Lê Duẩn từng nhấn mạnh: Trong điều kiện trực tiếp chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như nước ta thì tính chủ động của chuyên chính vô sản, vai trò xây dựng và tổ chức của nó cùng tính tự giác của quần chúng lao động trong việc sáng tạo ra xã hội mới càng vô cùng quan trọng. Có hiểu được điều đó mới thấy được đầy đủ vai trò của cách mạng tư tưởng và văn hóa của nước ta. Thu hẹp cách mạng tư tưởng và văn hóa trong khuôn khổ của sự nghiệp nâng cao trình độ học vấn của nhân dân, của việc trau dồi đạo đức hay tu dưỡng về lập trường quan điểm vô sản… đều là hạ thấp vai trò của cách mạng tư tưởng và văn hóa.

Đối tượng của cách mạng tư tưởng và văn hóa là con người. Nêu lên những đặc tính của con người mới, xã hội chủ nghĩa, đồng chí Lê Duẩn đã chỉ ra phương hướng chủ yếu của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa.

Tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa trước hết phải là tư tưởng làm chủ tập thể, là chủ nghĩa tập thể. Tư tưởng này là sản phẩm tất yếu của cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa, của quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về sản xuất và phân phối. Nó đối lập hẳn với chủ nghĩa cá thể và chủ nghĩa cá nhân ích kỷ là ý thức hệ của tất cả các chế độ xã hội cũ xây dựng trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất. Chính vì sự khác biệt căn bản đó mà việc xác lập địa vị thống trị của tư tưởng làm chủ tập thể phải là một quá trình đấu tranh gay go, lâu dài, chống những tư tưởng và thói quen của xã hội cũ: tư tưởng làm thuê, tác phong “công chức”, làm ăn vô trách nhiệm, chỉ biết tháng tháng lĩnh lương, tư tưởng con buôn, nói dối, làm dối, muốn làm ít mà ăn nhiều, muốn sống trên lưng người khác; tư tưởng cá thể, chỉ biết bo bo thu vén cho cá nhân, “cha chung không ai khóc”, v.v… Những tư tưởng này không tự nó biến mất cùng một lúc với cơ sở kinh tế đã sản sinh ra nó mà sống rất dai dẳng, trở ngại không ít cho tư tưởng làm chủ tập thể và cho ngay chính cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhìn vào mọi lĩnh vực, kinh tế quốc dân cũng như kinh tế hợp tác xã, chúng ta đều thấy rất rõ tác hại của những tư tưởng và thói quen này. Ở nơi nào cuộc đấu tranh tư tưởng tiến hành mạnh mẽ, liên tục và có tính quần chúng rộng rãi thì tư tưởng và lề thói của xã hội cũ được đẩy lùi, tư tưởng làm chủ tập thể được đề cao, kết quả là: kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển và củng cố, sản xuất vươn lên không ngừng. Ngược lại, nơi nào buông lỏng trong những tư tưởng và lề thói của xã hội cũ, để cho chúng lấn át tư tưởng làm chủ tập thể thì tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa rất dễ biến thành một cái xác không hồn.

Ý thức làm chủ tập thể – như đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh – “phải thể hiện trước hết ở thái độ coi trọng lao động, coi trọng sản xuất, coi trọng của công”. “Phải nhận thức rằng có lao động tốt nhất mới làm chủ được đầy đủ nhất, và chỉ có trên cơ sở năng suất lao động cao mới có đời sống vật chất và văn hóa phong phú, mới có chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Mọi người đều biết rằng, chính lao động đã sáng tạo ra bản thân con người, chính lao động đã sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần trên trái đất này; cũng chính lao động sẽ sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Coi khinh lao động, nhất là lao động sản xuất, lao động chân tay, đó là thái độ của các giai cấp bóc lột, ăn bám. Trong các xã hội trước đây, ngay những người lao động cũng thường có thái độ trốn tránh lao động; đó là sự phản ứng của họ đối với chế độ bóc lột, đối với lao động nô dịch cho bọn bóc lột. Những thái độ nói trên không còn cơ sở tồn tại nữa một khi chế độ người bóc lột người đã bị xóa bỏ, nhân dân lao động đã làm chủ sản xuất và làm chủ xã hội. Với chế độ xã hội chủ nghĩa, địa vị vinh quang của lao động phải được khôi phục rạng rỡ hơn bao giờ hết, lao động quên mình vì lợi ích của xã hội phải trở thành tiêu chuẩn số một của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nói làm chủ tập thể, nói xây dựng chủ nghĩa xã hội mà không ra sức lao động, và lao động quên mình, thì chỉ là lừa dối mình và lừa dối người khác.

“Có tinh thần làm chủ chưa đủ, còn phải có tri thức khoa học nữa thì mới làm chủ được xã hội và thiên nhiên, mới hoàn thành được sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Làm chủ khoa học, đó là đặc tính thứ hai của con người xã hội chủ nghĩa.

Đồng chí Lê Duẩn chỉ ra rất đúng đắn rằng: “Không có nhiệt tình cách mạng thì không thể có hành động cách mạng; song, nếu chỉ có nhiệt tình không thôi thì nhiều nhất cũng chỉ có thể phá được cái cũ chứ không thể xây dựng được xã hội mới. Xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là vận dụng tổng hợp mọi tri thức khoa học – khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và kĩ thuật – nhằm đạt tới đỉnh cao của nền văn minh. Vì vậy, con người xã hội chủ nghĩa phải là con người có trình độ văn hóa, khoa học và kĩ thuật tiên tiến, hiểu biết và vận dụng được các quy luật xã hội và tự nhiên, kế thừa và phát triển sáng tạo mọi thành tựu và văn hóa khoa học mà loài người đã tích lũy được bằng tinh lực của hàng ngàn thế hệ”.

Xã hội mà chúng ta xây dựng không phải là một xã hội “công bằng” rút ra từ một đạo lý vĩnh cửu nào đó, mà là một xã hội nảy sinh từ những thành tựu mới nhất của khoa học và kĩ thuật tư bản chủ nghĩa, cũng tức là từ những thành tựu mà loài người đã tích lũy được bằng tinh lực của hàng ngàn thế hệ. Nói xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà không có tri thức khoa học, không có kĩ thuật, thậm chí coi thường khoa học, coi thường kĩ thuật thì chỉ là không tưởng. Vì vậy, con người xã hội chủ nghĩa phải là con người vừa có nhiệt tình cách mạng lại vừa nắm được và lợi dụng được các quy luật của xã hội và của tự nhiên, vừa có nhiệt tình lao động lại vừa nắm được kĩ thuật hiện đại, có như vậy mới tạo ra được một năng suất lao động cao hơn hẳn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mới xây dựng được thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Ngoài hai điểm trên đây, con người xã hội chủ nghĩa còn có đặc điểm là kết hợp được lòng yêu nước nồng nàn với tinh thần quốc tế vô sản cao cả, hấp thụ được những thành tựu mới nhất của nền văn minh hiện đại đồng thời kế thừa và phát huy được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Con người như thế là con người có tâm hồn cao thượng, có tình cảm dạt dào, có kiến thức và tài năng. Thời đại xã hội chủ nghĩa – thời đại không còn chế độ người bóc lột người, thời đại con người thật sự làm chủ xã hội và làm chủ tự nhiên – nhất định phải sản sinh ra những con người như thế.

Tính quy luật của bước chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn  

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm nhiều mặt, trong đó xây dựng kinh tế là mặt lớn nhất, quan trọng nhất. Vì vậy, sau khi chỉ ra nội dung, phương hướng của ba cuộc cách mạng, cũng tức là chỉ ra phương hướng chung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng chí Lê Duẩn đã dành sự chú ý lớn nhất cho vấn đề xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không phải chỉ là công việc dựng nên một loạt nhà máy lớn. Nếu hiểu như vậy thì rõ ràng là không đầy đủ. Đồng chí Lê Duẩn viết: “Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải không chỉ là xây dựng một số xí nghiệp lớn của ngành này hay ngành khác của nền kinh tế, mà là cải biến toàn bộ nền sản xuất xã hội, thay đổi toàn bộ cơ cấu kinh tế quốc dân; là kết hợp việc cải tạo sản xuất nhỏ và việc xây dựng những cơ sở của sản xuất lớn, dựa vào kết quả cải tạo sản xuất nhỏ mà xây dựng sản xuất lớn, và ngược lại, dùng sức mạnh của những cơ sở sản xuất lớn để nhanh chóng cải biến sản xuất nhỏ, đưa sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn. Đứng trên toàn cục mà xét thì quá trình xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quá trình cải biến quan hệ sản xuất đi đôi với tiến hành cách mạng kĩ thuật, biến lao động thủ công thành lao động cơ giới; là quá trình phân công lại lao động xã hội, phát triển các ngành nghề với quy mô lớn, vừa đi sâu vào chuyên môn hóa, vừa tăng cường hợp tác hóa; là quá trình xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, chủ yếu với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa”.

Bất cứ nền sản xuất nào cũng vậy, muốn hoạt động bình thường đều phải có một thế cân đối nhất định trong nội bộ của nó. Nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa càng phải như vậy. Trong điều kiện nước ta, nếu chỉ hạn chế ở việc xây dựng một số xí nghiệp lớn thì có khác gì tạo ra một số hòn đảo “sản xuất lớn” ở giữa một cái biển “sản xuất nhỏ”? Thực ra, muốn cho những xí nghiệp lớn hoạt động được thì bản thân sản xuất nhỏ cũng phải được cải tạo để thích ứng với sản xuất lớn. Đó là chưa nói đến yêu cầu cải tạo bản thân sản xuất nhỏ để trở thành sản xuất lớn, việc cải tạo này không thể thực hiện được nếu như không có sản xuất lao động tác động vào. Như vậy, quá trình xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự kết hợp chắc chắn của hai quá trình: một mặt xây dựng mới những cơ sở sản xuất lớn, mặt khác từng bước cải tạo sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn, hai quá trình này nương tựa lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau.

Chúng ta bắt đầu từ một nền sản xuất nhỏ. Nét bao trùm của nền sản xuất này là năng suất lao động thấp, và vì năng suất lao động quá thấp cho nên phân công lao động xã hội rất kém phát triển. Điển hình của tình trạng đó là nền nông nghiệp độc canh, gần như chỉ đủ sức tự túc lương thực. Muốn cải tạo nền sản xuất đó thành sản xuất lớn phải từng bước nâng cao năng suất lớn, trên cơ sở đó mà phát triển các ngành nghề mới với quy mô lớn dần lên, cũng tức là tạo ra một hình thế mới về phân công lao động xã hội. Sự phân công lao động xã hội mới này, đến lượt nó, lại tạo ra năng suất lớn cao hơn, sản phẩm thặng dư dồi dào hơn, kết cấu kinh tế cân đối hợp lý hơn, đó chính là những điều kiện cho nền sản xuất lớn nảy sinh và phát triển, đồng thời cũng là những nét đặc trưng của nền sản xuất đó.

Đã là sản xuất lớn thì không thể không xây dựng trên cơ sở kĩ thuật hiện đại. Nền sản xuất lớn đó lại là sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Vì vậy quá trình xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải là quá trình đồng thời tiến hành cách mạng kĩ thuật và cách mạng quan hệ sản xuất. Trên một ý nghĩa nào đó, còn có thể nói: đó là quá trình đồng thời tiến hành ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng kĩ thuật là then chốt.

Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng tức là tạo ra một nền sản xuất cân đối, hiện đại, đủ sức khai thác nguồn lao động dồi dào và ngành tài nguyên thiên nhiên phong phú của đất nước, đồng thời đáp ứng được – ít ra là về cơ bản – những nhu cầu nhiều vẻ của nhân dân ta. Một nền sản xuất như thế chính là cơ sở của một nền kinh tế dân tộc tự chủ. Nó không còn bị phụ thuộc vào nước ngoài về mặt này hay mặt khác (thiết bị, nguyên liệu, v.v…) như nền sản xuất nhỏ. Tuy nhiên, nếu quan niệm về nền kinh tế dân tộc tự chủ như là một nền kinh tế tự cung tự cấp, đóng cửa thu mình, thì hoàn toàn sai lầm. Trong thời đại ngày nay, không có, mà cũng không thể có một nền kinh tế hiện đại nào tự nó thỏa mãn được hết thảy mọi nhu cầu của nó. Ít ra thì tự túc như vậy cũng là không kinh tế. Khái niệm “kinh tế dân tộc tự chủ” không loại trừ việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, càng không loại trừ việc mở rộng những quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Chính là thông qua những quan hệ kinh tế đó mà nền kinh tế dân tộc tự chủ phát huy được những mặt mạnh của nó đồng thời được bổ sung được những mặt còn yếu, nhờ vậy mà càng trở nên tự chủ hơn. Ngược lại, nền kinh tế dân tộc tự chủ càng vững mạnh bao nhiêu thì nó có nhiều khả năng bấy nhiêu để mở rộng quan hệ trao đổi và hợp tác với nước ngoài, điều mà một nền kinh tế què quặt không thể có. Một nền kinh tế què quặt chỉ là một gánh nặng đối với các nước anh em, đồng thời là một miếng mồi đối với chủ nghĩa đế quốc.

Như vậy, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta không phải đơn thuần là cuộc xây dựng lên một loạt nhà máy lớn mà là một sự nghiệp rộng lớn hơn nhằm cải tạo toàn bộ nền kinh tế nước ta theo kĩ thuật hiện đại và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, biến nền sản xuất nhỏ, cá thể, què quặt, lạc hậu thành một nền sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa, cân đối, hiện đại, đủ sức khai thác tốt nhất mọi nguồn lao động dồi dào và tài nguyên thiên nhiên nhiều vẻ của nước ta, đủ sức làm cơ sở cho một đời sống vật chất và văn hóa ngày càng phong phú.

Từ điểm xuất phát rất thấp hiện nay, phải có bước đi như thế nào để vươn tới mục tiêu đó? Để giải đáp vấn đề này, đồng chí Lê Duẩn bắt đầu bằng việc tìm đến nguồn gốc phát sinh ra nền sản xuất lớn. Đồng chí viết: “Muốn xây dựng một nền sản xuất lớn, cần phải có một khối lượng tư liệu sản xuất và lao động nhất định. Trước đây, để nhanh chóng tạo nên nguồn vốn to lớn đó trong thời kì tích lũy ban đầu, chủ nghĩa tư bản đã dùng bạo lực tàn khốc trong nước và các nước thuộc địa, biến họ thành những người nô lệ làm thuê…”

Nhìn lại quá khứ, ta thấy nền sản xuất nhỏ gần như ngự trị toàn bộ lịch sử loài người. Chỉ đến chủ nghĩa tư bản thì nền sản xuất lớn mới xuất hiện và trở thành hình thái chủ yếu của sản xuất. Phân tích quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ấy, ta thấy có ba nhân tố làm cơ sở cho sự chuyển biến. Đó là kĩ thuật, vốn và lao động.

Cơ sở kĩ thuật của sản xuất nhỏ là những tư liệu lao động thô sơ, kích thước nhỏ bé, chỉ vừa cho cá nhân sử dụng. Trong nông nghiệp thì đó là cái cuốc, cái cào, cái cày chìa vôi, v.v… Trong công nghiệp thì đó là cái rìu, cái đục, cái bễ lò rèn, v.v… Những tư liệu lao động như thế rất thích hợp hoặc chỉ thích hợp với nền sản xuất nhỏ. Chúng không đòi hỏi sự hợp tác lao động của nhiều người, lấy đó làm điều kiện để hoạt động và phát huy tác dụng. “Tập trung lại và mở rộng những tư liệu lao động phân tán và nhỏ bé ấy ra, biến nó thành những đòn bẩy mạnh mẽ của nền sản xuất hiện giờ, đó chính là vai trò lịch sử của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của giai cấp vốn là trụ cột để duy trì phương thức sản xuất ấy, tức là giai cấp tư sản… Nhưng giai cấp tư sản không thể biến những tư liệu sản xuất có tính chất hạn chế ấy thành những lực lượng sản xuất mạnh mẽ được nếu nó không biến những tư liệu sản xuất thành những tư liệu sản xuất có tính chất xã hội mà chỉ một số đông người cùng làm mới có thể sử dụng được. Guồng quay sợi, khung cửi tay, búa thợ rèn, đã nhường chỗ cho máy sợi, khung cửi máy, búa máy chạy bằng hơi nước; xưởng thợ cá nhân đã nhường chỗ cho công xưởng đòi hỏi hàng trăm, hàng nghìn người cùng làm. Và cũng như tư liệu sản xuất, chính ngay sự sản xuất cũng thay đổi từ chỗ sản xuất bằng một loạt động tác cá nhân đến chỗ sản xuất bằng một loạt động tác có tính chất xã hội”. Như vậy, với sự xuất hiện của những tư liệu lao động có tính chất xã hội nà chỉ một số động người cùng làm mới có thể sử dụng được thì “tính chất hiệp tác của lao động trở thành một tất yếu kĩ thuật do chính tính chất của tư liệu lao động quy định”. Những tư liệu lao động này được dùng phổ biến thì sản xuất lớn cũng trở thành hình thái chủ yếu của sản xuất.

Ngày nay, trong khi chủ động xây dựng nền sản xuất lớn, chúng ta không còn phải mò mẫm về mặt kĩ thuật như chủ nghĩa tư bản trước đây nữa. Trải qua hơn một thế kỷ tìm tòi, phát minh, kĩ thuật cơ giới hóa đã đạt đến một trình độ rất cao trên tất cả các lĩnh vực. Vấn đề chỉ còn là ở chỗ: chúng ta có kiếm được đủ số vốn cần thiết để nhập khẩu những thiết bị kĩ thuật ấy hay không?

Đứng về mặt giá trị mà xét thì thiết bị kĩ thuật hiện đại là những khối lượng giá trị khổng lồ, những lượng lao động quá khứ rất lớn kết tinh lại. Xây dựng nền sản xuất lớn cũng tức là “chất đống” rất nhiều lao động quá khứ lại. Điều đó cũng có nghĩa là: một lượng lao động quá khứ hay lao động thặng dư rất lớn tích lũy lại là điều kiện cho sự chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Nghiên cứu sự ra đời của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, Mác viết: “Tiền đề của tích lũy tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư, và tiền đề của giá trị thặng dư là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, còn nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì, đến lượt nó, nó chỉ xuất hiện khi nào những khối lượng khá lớn về tư bản và sức lao động đã được tích lũy trong tay những người sản xuất hàng hóa. Thế là toàn bộ sự vận động đó hình như xoay trong cái vòng luẩn quẩn, mà muốn thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn đó thì không thể không thừa nhận một sự tích lũy nguyên thủy… là sự tích lũy có trước sự tích lũy tư bản chủ nghĩa và dùng làm điểm xuất phát cho nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chứ không phải do sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra”.

Từ sản xuất nhỏ tiến lên xây dựng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cũng giống như từ sản xuất nhỏ tiến lên xây dựng sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, tích lũy nguyên thủy vẫn giữ vai trò quyết định: nó tạo ra cái vốn ban đầu để dựng lên những cơ sở đầu tiên của nền sản xuất lớn. Không thực hiện được sự tích lũy đó thì không có sản xuất lớn, do đó, cũng không có chủ nghĩa xã hội. Chính trên ý nghĩa ấy mà đồng chí Lê Duẩn đã coi: “tích lũy vốn cho công nghiệp hóa” là một nhiệm vụ kinh tế cơ bản của chúng ta trong bước đi ban đầu.

Có vốn thì có tư liệu sản xuất, có kĩ thuật hiện đại. Song, nền sản xuất lớn chỉ hình thành khi nó tập trung được không những một khối lượng rất lớn tư liệu sản xuất mà cả một khối lượng rất lớn người lao động nữa. Để có được số lượng lớn người lao động cần thiết đó, chủ nghĩa tư bản đã dùng thủ đoạn tước đoạt những người tư hữu nhỏ để tách họ ra khỏi nền sản xuất nhỏ cổ truyền, biến họ thành những người lao động “tự do”, thành vô sản làm thuê. Đương nhiên đó không phải là biện pháp của chủ nghĩa xã hội.

Trên kia, chúng ta đã thấy sự cần thiết phải đồng thời tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng kĩ thuật ở nông thông nhằm từng bước cải tạo nền sản xuất nhỏ của những người tư hữu nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại, của những người lao động có trình độ chuyên môn cao. Vấn đề đặt ra ở đây thuộc khía cạnh khác. Đây không phải là vấn đề cải tạo bản thân khu vực sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn, mà là vấn đề xây dựng hoàn toàn mới một khu vực sản xuất lớn bao gồm đại công nghiệp, giao thông vận tải, kiến trúc, v.v… Muốn cung cấp hàng vạn và hàng chục vạn lao động cho những ngành này, không thể không “giải phóng” lao động ra khỏi nông nghiệp, dù là nông nghiệp cá thể hay nông nghiệp tập thể cũng vậy. Nhưng, giải phóng lao động ra khỏi nông nghiệp không phải bằng bạo lực tước đoạt như chủ nghĩa tư bản, mà bằng cách nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp, trên cơ sở đó mà chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp ngày càng lớn sang công nghiệp, giao thông vận tải, kiến trúc… Giải phóng lao động ra khỏi nông nghiệp theo cách đó thì không những giải quyết được vấn đề lao động cho khu vực sản xuất lớn đang hình thành mà còn bảo đảm được lợi ích của mọi người lao động, phát triển được sản xuất công nông nghiệp một cách nhịp nhàng, cân đối.

Như trên ta thấy, muốn thực hiện sự chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn (sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa cũng như sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa), phải tập hợp được đủ ba yếu tố: kĩ thuật, vốn, và lao động. Trong ba yếu tố đó thì vốn là vấn đề gay gắt nhất.

Một nước nông nghiệp hết sức lạc hậu, ruộng đất bình quân đầu người chỉ 1/10 héc ta, lao động thặng dư và sản phẩm thặng dư rất ít, làm thế nào để tích lũy được đủ số vốn ban đầu cần thiết để chuyển mình lên sản xuất lớn? Tính chất gay gắt của vấn đề còn được nhân lên vì ngay trước mắt chúng ta còn phải chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, ngay trước mắt chúng ta phải tiến hành phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Để thấy được tính chất gay gắt của vấn đề này chỉ cần nhớ lại rằng chủ nghĩa tư bản đã phải trải qua hàng trăm năm bóc lột cực kì tàn khốc mới thực hiện được tích lũy nguyên thủy, trong thời gian đó, mức sống của người lao động bị hạ thấp tới điểm giới hạn giữa sự sống và sự chết, còn ngày lao động thì kéo dài tới 14-15 giờ, và chỉ mãi về sau, qua nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, mới rút xuống còn 12 giờ. Chúng ta bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội khi mà giai cấp công nhân quốc tế, trải qua hơn một thế kỷ đấu tranh với tư bản, đã giành được quyền lao động mỗi ngày 8 giờ. Với 8 giờ lao động đó, ở các nước tư bản chủ nghĩa, người công nhân đã phải làm công không cho tư bản tới 4 giờ hoặc hơn nữa. Nhưng, ở trình độ năng suất lao động xã hội của ta hiện nay, thời gian lao động thặng dư không quá 1 giờ! Đó là nói trong trường hợp ngày lao động 8 tiếng được sử dụng tốt nhất và với điều kiện mức sống của người lao động vẫn duy trì ở mức rất thấp. Với một nền sản xuất lạc hậu như vậy, với một năng suất lao động thấp kém như vậy, phải lựa chọn bước đi như thế nào để vừa tích lũy được vốn ban đầu nhanh nhất lại vừa cải thiện đời sống nhân dân? Câu giải đáp hợp lý là:

“…phải biết xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến hành một sự phân công lao động mới trên cơ sở làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nhằm đẩy mạnh sản xuất và tăng nhanh năng suất lao động… ”

Trong buổi đầu của thời kì quá độ, khi mà nền kinh tế quốc dân còn ở trong tình trạng sản xuất nhỏ, khi mà lao động nông nghiệp với năng suất rất thấp đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội, thì bước đi đầu tiên có ý nghĩa then chốt là nhanh chóng biến nền nông nghiệp cá thể, độc canh, thành nền nông nghiệp tập thể, toàn diện; là dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động mà phân công lại lao động xã hội theo phương hướng sản xuất mới, chuyển một phần lao động nông nghiệp sang phát triển công nghiệp, giảm dần lao động tất yếu và tăng thêm lao động thặng dư – nguồn gốc duy nhất của tích lũy. Muốn vậy, ngay từ đầu phải đem công nghiệp tác động vào nông nghiệp, kết hợp chắc chắn nông nghiệp với công nghiệp bao gồm công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương; mối quan hệ đó giữa công nghiệp và nông nghiệp chỉ có thể thực hiện thông qua việc xây dựng kinh tế trung ương và kinh tế địa phương.

Nói một cách vắn tắt chúng ta có công thức sau đây: “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; xây dựng kinh tế trung ương đồng thời phát triển kinh tế địa phương”. Đó chính là đường lối phát triển kinh tế trong bước đi ban đầu thích hợp nhất với đặc điểm kinh tế của nước ta. Đường lối này cụ thể hóa thêm một bước những chỉ thị của Đại hội Đảng lần thứ ba. Nó đúc kết một cách sáng tạo kinh nghiệm xây dựng kinh tế của nhân dân ta trong 10 năm qua và vì thế, phản ánh một cách sâu sắc tính quy luật của bước chuyển từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.

Để làm rõ những kết luận trên đây, chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu luận điểm của đồng chí Lê Duẩn về quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương.

Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ

Công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành sản xuất vật chất cơ bản nhất của xã hội. Tuy nhiên, không phải vì thế mà hai ngành đều có một vị trí như nhau trong nền kinh tế quốc dân. Tùy theo tình hình cụ thể mỗi lúc mà ngành này hay ngành kia nổi lên như là vấn đề thời sự hàng đầu của tiến trình phát triển kinh tế.   

Liên Xô sau cách mạng tháng Mười, một mình đứng giữa vòng vây tư bản chủ nghĩa, không thể không dốc sức vào việc phát triển công nghiệp nặng, thậm chí – như Lênin nói – hy sinh đến cả các trường học để xây dựng công nghiệp nặng. Gấp rút xây dựng cho mình một nền công nghiệp nặng hoàn chỉnh, đó là vấn đề sinh tử của Liên Xô lúc bấy giờ, xét về mặt kinh tế cũng như về mặt quốc phòng. Trong tình hình như vậy, hết thảy các ngành kinh tế khác, gồm cả nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đều bị đẩy lùi xuống hàng thứ yếu. Tạm thời, nền kinh tế quốc dân phải chịu một số khâu mất cân đối nào đó, đời sống nhân dân phải chịu hy sinh về một số mặt nào đó.

Hoàn cảnh quốc tế của chúng ta ngày nay thuận lợi hơn rất nhiều so với hoàn cảnh quốc tế trước đây của Liên Xô. Trong lúc chưa xây dựng được nền công nghiệp nặng của chính mình, chúng ta có thể dựa vào nền công nghiệp nặng của cả phe xã hội chủ nghĩa để tăng cường sức mạnh quốc phòng của chúng ta. Việc xây dựng công nghiệp nặng làm cơ sở cho nền kinh tế dân tộc tự chủ cũng không đặt ra một cách gấp rút như đối với Liên Xô trước đây. Trong tình hình như vậy, quyền lựa chọn của chúng ta trong việc định ra bước đi hợp lý nhất của từng ngành kinh tế và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân là tương đối rộng rãi. Đương nhiên, muốn lựa chọn đúng, phải tính đến tình hình cụ thể của nền kinh tế quốc dân, lấy nó làm căn cứ chủ yếu.

Vì tình hình cụ thể của mỗi nước một khác, nhất là trong bước đi ban đầu, cho nên bước đi của mỗi nước thường là không giống nhau. Ở những nước vốn có sẵn một nền công nghiệp nặng ít nhiều phát triển, nhất là khi nền công nghiệp này đã đóng một vai trò có tính chất quyết định trong nền kinh tế quốc dân, thì giai cấp vô sản, ngay sau khi giành được chính quyền, không thể không bắt tay ngay vào việc khôi phục và phát triển công nghiệp nặng, lấy đó làm đòn bẩy quan trọng nhất để khôi phục và phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chúng ta hãy lấy trường hợp của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên làm thí dụ. Sau ngày giải phóng (1945) cũng như sau ngày đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ (1953), Triều Tiên luôn luôn kiên trì đường lối: dốc sức vào việc khôi phục và phát triển công nghiệp nặng, và trên cơ sở đó, từng bước phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp, từng bước giải quyết vấn đề ăn, mặc, ở của nhân dân. Đường lối này đã được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Nó đáp ứng đúng những yêu cầu phát triển của nền kinh tế Triều Tiên. Người ta biết rằng trước ngày giải phóng (1944), Triều Tiên đã sản xuất được trên 8 tỷ ki-lô-oát giờ điện, gần 6 triệu tấn than, nửa triệu tấn gang, 16 vạn tấn thép, gần một triệu tấn xi-măng, nửa triệu tấn phân bón hóa học. Triều Tiên lại rất giàu về khoáng sản. Từ lâu, khoáng sản đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước này. Trong khi đó thì sản xuất nông nghiệp và công nghiệp nhẹ lại hết sức nghèo nàn: hơn 1 triệu mét vải, hơn 2 triệu tấn lương thực (có 1 triệu tấn lúa), ngoài ra hầu như không còn gì khác (với số dân là 12 triệu người). Điều kiện thiên nhiên lại rất kém thuận lợi cho cây trồng và gia súc: phần lớn là đất đồi khô cằn, ruộng cấy lúa chỉ có 40 vạn héc ta, đồng cỏ không có, khí hậu giá rét, trồng trọt chỉ được một vụ. Tình hình trên đây nói lên việc khôi phục và phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và toàn bộ nền kinh tế quốc dân phụ thuộc đến mức nào vào việc khôi phục và phát triển công nghiệp nặng. Có thể nói, nếu không có công nghiệp nặng hùng mạnh thì không thể giải quyết được vấn đề ăn, mặc, ở của nhân dân, không thể chế ngự được thiên nhiên để phát triển mạnh nông nghiệp. Nét đặc thù của đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Triều Tiên chính là bắt nguồn từ tình hình đó.

Khác với phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa anh em, miền Bắc nước ta bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với cái vốn liếng về công nghiệp nặng gần như không có gì (200 triệu ki-lô-oát giờ điện, 2 triệu tấn than, 30 vạn tấn xi-măng, ngoài ra không có gì nữa). Tỷ trọng của đại công nghiệp trong tổng giá trị sản lượng công nông nghiệp cũng không đáng kể (10% năm 1939 và 5% năm 1955). Nông nghiệp thì hết sức lạc hậu: gần như toàn bộ lao động và đất đai dồn vào việc trồng cây lương thực, vậy mà vẫn không bảo đảm đủ no. Từ điểm xuất phát cực kỳ thấp như vậy mà tiến hành công nghiệp hóa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đó là vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp. Có người nghĩ rằng đã tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa thì nhất định phải lao ngay vào công nghiệp nặng, bất kể hoàn cảnh như thế nào, và càng dồn được nhiều sức lực cho công nghiệp nặng bao nhiêu thì càng thực hiện được công nghiệp hóa nhanh bấy nhiêu. Sự thật không đơn giản như vậy. Trước hết, cần khẳng định: đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải là công nghiệp nặng, và nội dung cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là phải xây dựng công nghiệp nặng. Những luận điểm này đã trở thành chân lý, trở thành nguyên lý. Vấn đề là ở chỗ: làm thế nào để thực hiện được công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa mà nội dung cơ bản là xây dựng công nghiệp nặng? Làm thế nào để cho công nghiệp nặng sớm trưởng thành, sớm đóng được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa?

Ai cũng biết, muốn xây dựng công nghiệp nặng, phải có vốn, phải có lao động và một loạt điều kiện khác nữa. Trong trường hợp “làm không đủ ăn” thì lấy đâu ra tích lũy để lao ngay vào công nghiệp nặng? Nếu cứ tích lũy thì vấn đề đời sống giải quyết ra sao? Giả sử có dựng lên được một số xí nghiệp công nghiệp nặng trong khi nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và các ngành kinh tế khác còn đang hết sức lạc hậu thì sản phẩm của những xí nghiệp này tiêu thụ đi đâu? Mà nếu không tiêu thụ được thì làm sao tiếp tục sản xuất được, làm sao tiếp tục xây dựng được?

Đã đành công nghiệp nặng là đòn bẩy mạnh mẽ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, là nền tảng của sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, và vì thế, công nghiệp nặng càng mạnh bao nhiêu thì công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa càng nhanh bấy nhiêu, nhưng mặt khác, lại phải thấy rằng chính sự phát triển của công nghiệp nặng lại phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển thực tại của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phụ thuộc vào khả năng tích lũy của nó, khả năng cung cấp nông sản “thừa” và sức lao động “thừa” của nó, khả năng tiếp thu những tư liệu sản xuất do công nghiệp nặng sản xuất ra, v.v… Không thấy mối quan hệ phụ thuộc đó mà chỉ một chiều nhấn mạnh công nghiệp nặng, một chiều tập trung vốn liếng vào công nghiệp nặng thì cuối cùng, cả công nghiệp nặng lẫn toàn bộ nền kinh tế quốc dân đều không thể tiến lên được.

Những vấn đề trên đây đều được đồng chí Lê Duẩn phân tích và kết luận một cách khoa học. Trước hết, đồng chí khẳng định vai trò quyết định của công nghiệp nặng trong toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa:

“ Cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được của chủ nghĩa xã hội là đại công nghiệp cơ khí. Ai quên điều ấy, người đó không phải là người cộng sản”. Lời nói đanh thép đó của Lênin đã vạch rõ vai trò cực kỳ quan trọng của công nghiệp nặng trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, coi thái độ đối với công nghiệp nặng là một trong những tiêu chuẩn cơ bản phân biệt chủ nghĩa xã hội khoa học với các thứ “chủ nghĩa xã hội” khác. Chúng ta coi trọng công nghiệp nặng vì công nghiệp nặng là đòn bẩy đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, vì công nghiệp nặng trang bị công cụ mới cho lao động, làm tăng thêm sức mạnh của con người đối với thiên nhiên, giải phóng lao động khỏi tình trạng thủ công lạc hậu, làm cho lao động có năng suất cao hơn để xây dựng xã hội mới và nền kinh tế mới. Với những sức mạnh to lớn do công nghiệp nặng mang lại, con người có thể khai thác ngày càng đầy đủ hơn các tài nguyên thiên nhiên, tạo ra ngày càng nhiều hơn các loại sản phẩm mới.

“Vì công nghiệp nặng có vai trò quyết định như vậy cho nên trong hoàn cảnh nước ta, Đảng ta coi công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa mà mấu chốt là xây dựng một hệ thống công nghiệp nặng hiện đại là “nhiệm vụ trung tâm suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.

Tiếp đó, đồng chí chỉ ra những điều kiện thuận lợi cho phép chúng ta tiến công ngay vào công nghiệp nặng, thực hiện ngay một số bước nhảy vọt về kinh tế và kĩ thuật:

“Ngày nay ở nước ta, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cho phép chúng ta có thể tập trung vốn nhanh hơn, phân công lại lao động nhanh hơn, ngay từ đầu đã có thể dành một phần thu nhập quốc dân và một phần lao động cho xây dựng công nghiệp nặng. Sẵn có tài nguyên, lại được sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa và sự hợp tác quốc tế, chúng ta có thể thực hiện sớm hơn quá trình tích lũy ban đầu, có thể giải quyết nhanh hơn các vấn đề phức tạp của khoa học và kĩ thuật. Như vậy là ngay khi nông nghiệp và công nghiệp nhẹ trong nước còn thấp kém, chúng ta đã có sẵn trước mắt một số điều kiện để phát triển công nghiệp nặng mà trước đây chủ nghĩa tư bản không thể có được. Do đó, không mạnh dạn tiến quân ngay vào công nghiệp nặng, xây dựng ngay một số cơ sở cần thiết về công nghiệp nặng thì tức là chưa hiểu rõ hoàn cảnh thuận lợi của sự nghiệp xây dựng kinh tế ở nước ta, chưa biết tận dụng những ưu thế sẵn có để sớm tạo nên một thế đi lên cho nền kinh tế cả nước, đưa nông nghiệp và công nghiệp nhẹ tiến lên nhanh hơn, không chỉ phát triển tuần tự mà còn có thể phát triển nhảy vọt”.

Thấy được những điều kiện mới, thuận lợi, để mà tận dụng là hết sức cần thiết là hết sức cần thiết, song không bao giờ được quên rằng “muốn xây dựng công nghiệp nặng, nhất thiết phải có những điều kiện tiên quyết do chính nông nghiệp và công nghiệp nhẹ sáng tạo ra”. Đó là sức lao động, là hàng tiêu dùng, là vốn tích lũy ban đầu, là thị trường. Đồng chí Lê Duẩn viết:

“Chúng ta phải nhận rõ rằng: công nghiệp nặng chỉ có thể phát triển mạnh mẽ khi nào nông nghiệp và công nghiệp nhẹ đã trở thành những cơ sở vững chắc cho nó. Nếu không đếm xỉa đến tình trạng thấp kém của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ hiện nay, nếu không thấy sự ràng buộc tất yếu của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ đối với công nghiệp nặng, nếu triển khai công nghiệp nặng mà không nhằm đẩy mạnh nông nghiệp và công nghiệp nhẹ thì thực tế không những không phát triển được công nghiệp nặng, mà còn làm nghiêm trọng thêm tình trạng không cân đối của nền kinh tế, tạo thêm nhiều khó khăn và làm cản trở bước tiến lên của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, ngay từ đầu, phải ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, gấp rút tạo ra bước phát triển nhảy vọt đầu tiên trong nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; và mỗi một bước phát triển của công nghiệp nặng đều phải nhằm phục vụ việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, bởi vì nếu không có sự tác động của công nghiệp nặng thì không thể đẩy mạnh được nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Vả lại, công nghiệp nặng phục vụ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đưa nông nghiệp và công nghiệp nhẹ tiến lên cũng chính là tạo điều kiện cho việc phát triển ưu tiên bản thân công nghiệp nặng”.

Quan hệ giữa công nghiệp nặng với nông nghiệp và công nghiệp nhẹ cũng tức là quan hệ giữa khu vực sản xuất tư liệu sản xuất với khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng. Mối quan hệ đó bao hàm hai mặt: một mặt là sự phụ thuộc của sản xuất tư liệu tiêu dùng với sản xuất tư liệu sản xuất, mặt khác là sự phụ thuộc ngược lại – sự phụ thuộc của sản xuất tư liệu sản xuất đối với sản xuất tư liệu tiêu dùng. Vì sản xuất tư liệu tiêu dùng phụ thuộc vào số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất do công nghiệp nặng cung cấp cho nên công nghiệp nặng nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và công nghiệp nặng phải được ưu tiên phát triển. Vì sản xuất tư liệu sản xuất phụ thuộc vào nông nghiệp và công nghiệp nhẹ với tư cách là nguồn cung cấp tư liệu tiêu dùng và thị trường tiêu thụ tư liệu sản xuất cho nên nông nghiệp và công nghiệp nhẹ phải được xem là cơ sở để phát triển công nghiệp nặng, và sự phát triển ưu tiên của công nghiệp nặng phải được thực hiện trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Trong công tác lý luận cũng như trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, người ta có khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một chiều mặt phụ thuộc thứ nhất mà quên mất hoặc rất coi nhẹ mặt phụ thuộc thứ hai. Ngược lại, cũng có trường hợp người ta khuếch đại quá mức mặt phụ thuộc thứ hai mà coi nhẹ mặt phụ thuộc thứ nhất. Đoạn văn trên đây của đồng chí Lê Duẩn lưu ý chúng ta đề phòng cả hai khuynh hướng sai lầm ấy. Đặc biệt là việc nhấn mạnh mặt phụ thuộc thứ hai có ý nghĩa thực tiễn rất lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của chúng ta: nó nhằm trúng những thiếu sót của chúng ta trong những năm vừa qua và vì thế, giúp chúng ta nhìn thấy rõ hơn phương hướng tiến lên trong những năm sắp tới.

Để làm rõ điểm này, chúng ta hãy tìm hiểu sâu hơn vai trò của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ trong bước đi ban đầu của nước ta trên con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Nông nghiệp, với đối tượng sản xuất là cây trồng và gia súc, bao giờ cũng là ngành sản xuất quan trọng nhất đối với sự sống của con người. Chừng nào con người còn phải thông qua sự sinh trưởng tự nhiên của thực vật và động vật để tạo ra nguồn dinh dưỡng cần thiết cho sự sống của mình thì chừng ấy, nông nghiệp vẫn là ngành quan trọng nhất. Tuy nhiên, điều mà chúng ta quan tâm ở đây không phải là xem xét vị trí của nông nghiệp dưới ý nghĩa chung chung ấy.

Chúng ta không quan tâm nghiên cứu vị trí của nông nghiệp trong các xã hội trước đây, khi mà nông nghiệp còn là ngành sản xuất gần như duy nhất của xã hội. Điều này chẳng nói lên cái gì, ngoài trình độ hết sức thấp kém của năng suất lao động xã hội.

Điều mà chúng ta quan tâm nghiên cứu là: ở nước ta, xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp hết sức lạc hậu, nông nghiệp phải có vai trò như thế nào trong bước đi ban đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa? Nói nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp là với ý nghĩa như thế nào?

Có người nghĩ rằng chúng ta coi trọng nông nghiệp trong bước đi ban đầu này là vì nông nghiệp của nước ta quá lạc hậu: sản lượng lương thực mới chỉ đạt mức tạm đủ ăn, chứ chưa dư thừa như nhiều nước khác. Lập luận như vậy không sai, nhưng chưa đủ. Vai trò của nông nghiệp – cơ sở để phát triển công nghiệp – cần được xem xét trên nhiều mặt, chủ yếu là mấy mặt sau đây:

1- Vai trò của nông nghiệp, hay đúng hơn, của năng suất lao động nông nghiệp, đối với việc mở rộng phân công lao động xã hội nói chung, đối với việc mở mang công nghiệp nói riêng;

2- Vai trò của nông nghiệp đối với việc tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa;

3- Vị trí của nông nghiệp trong một cơ cấu kinh tế hợp lý, vừa bảo đảm tích lũy vốn cho công nghiệp hóa, vừa bảo đảm cải thiện đời sống nhân dân;

4- Vị trí của nông nghiệp trong thế phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong thế phát triển cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng.

A- Về vai trò của năng suất lao động trong nông nghiệp đối với việc mở rộng phân công lao động xã hội nói chung, đối với việc mở mang công nghiệp nói riêng, Mác đã từng chỉ ra như sau:

“Vì việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện trước nhất của sự sống của những người sản xuất trực tiếp và của mọi việc sản xuất nói chung, cho nên lao động bỏ vào việc sản xuất đó, cũng tức là lao động nông nghiệp hiểu theo ý nghĩa kinh tế rộng nhất của chữ ấy, phải đủ sinh lợi như thế nào để cho việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho những người sản xuất trực tiếp không thu hút hết toàn bộ thời gian lao động mà họ có được, nghĩa là để cho lao động thặng dư nông nghiệp, và do đó, sản phẩm thặng dư nông nghiệp có thể được. Suy rộng ra nữa, toàn bộ lao động nông nghiệp – kể cả lao động tất yếu và lao động thặng dư – của một bộ phận nào đó của xã hội phải có khả năng sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cần thiết cho toàn thể xã hội, nghĩa là cho cả những người lao động phi nông nghiệp; có như thế thì mới có được sự phân công lớn giữa những người làm nông nghiệp và những người làm công nghiệp cũng như sự phân công giữa những người làm nông nghiệp sản xuất ra lương thực và những người làm nông nghiệp sản xuất ra nguyên liệu. Như vậy, mặc dù đối với bản thân những người sản xuất trực tiếp ra lương thực, lao động của họ cũng chia ra thành lao động tất yếu và lao động thặng dư, nhưng đứng trên quan điểm toàn xã hội mà xét thì lao động của họ chỉ là thứ lao động tất yếu, cần thiết để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt”.

Ở đoạn khác, Mác viết:

“Thời gian lao động tất yếu của người lao động cá biệt càng ít bao nhiêu thì anh ta càng có thể cung cấp được nhiều lao động thặng dư bấy nhiêu. Đối với dân cư lao động cũng vậy, bộ phận cần phải dành vào việc sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt càng ít bao nhiêu thì bộ phận có thể sử dụng vào các công việc khác càng nhiều bấy nhiêu”.

“Như vậy, lao động nông nghiệp là cái cơ sở tự nhiên… không phải chỉ riêng cho lao động thặng dư trong lĩnh vực của bản thân ngành nông nghiệp, mà còn là cái cơ sở tự nhiên để biến tất cả các ngành lao động khác thành những ngành độc lập”. Từ những đoạn trích dẫn trên đây, chúng ta rút ra mấy đặc điểm:

1- Sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện trước nhất của sự sống của những người sản xuất, vì vậy, làm hoạt động sản xuất đầu tiên của mọi xã hội. Chỉ sau khi đã bảo đảm được đủ những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho sự sống của mình (trước nhất là thức ăn) thì người ta có quyền tiến hành những hoạt động sản xuất khác (hoặc những hoạt động phi sản xuất).

2- Lao động nông nghiệp là thứ lao động sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho sự sống con người, vì vậy, đứng trên quan điểm của toàn xã hội mà xét, nó là thứ lao động tất yếu (còn lao động sản xuất ra máy móc, nhà xưởng, đường xá thì thuộc lao động thặng dư. Chúng ta biết rằng lao động thặng dư chỉ bắt đầu ở điểm mà lao động tất yếu chấm dứt. Vì vậy, bộ phận dân cư làm nông nghiệp càng ít bao nhiêu (ít nhưng vẫn bảo đảm sản xuất đủ tư liệu sinh hoạt cho toàn bộ dân cư) thì bộ phận dân cư có thể sử dụng vào công nghiệp, kiến trúc, giao thông vận tải, v.v… càng lớn bấy nhiêu.

3- Muốn cho bộ phận dân cư làm nông nghiệp ngày càng giảm bớt mà vẫn bảo đảm cho sản xuất đủ nhu cầu sinh hoạt cho toàn bộ dân cư thì chỉ có cách: nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp, trước nhất là năng suất của những người sản xuất thức ăn (lương thực, thực phẩm). Như vậy, năng suất của lao động vượt quá nhu cầu cá nhân của người lao động là điểm xuất phát để biến tất cả các ngành sản xuất khác thành những ngành độc lập, là cơ sở của mọi sự phân công lao động xã hội, gồm cả sự phân công giữa những người làm nông nghiệp và những người làm công nghiệp.

Nhìn vào nền nông nghiệp nước ta, rất dễ nhận thấy rằng: bộ phận dân cư làm nông nghiệp nói chung (hiện chiếm trên 70% dân số miền Bắc) và làm lương thực nói riêng còn quá lớn; khối lượng sản phẩm nông nghiệp (lương thực, thực phẩm, nguyên liệu) mà những người lao động nông nghiệp đã sản xuất thặng dư ngoài sự tiêu dùng cá nhân của họ còn quá nhỏ; do đó, sự phân công giữa người làm nông nghiệp và những người làm công nghiệp cũng như sự phân công trong nội bộ, những người làm nông nghiệp – giữa những người trồng trọt và những người chăn nuôi, giữa những người trồng cây lương thực và những người trồng cây công nghiệp – còn hết sức hạn chế. Vậy mà công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa lại chính là một quá trình phân công lại lao động xã hội, làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, ngày càng phong phú. Nội dung của quá trình đó gồm mấy mặt phân công lớn sau đây:

– Chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp ngày càng lớn sang các ngành công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến, công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ;

– Chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp ngày càng lớn sang các công việc mở mang đường sá, phát triển giao thông vận tải, phục vụ cho công nghiệp phát triển và các việc mở mang các vùng kinh tế mới;

– Chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp ngày càng lớn sang các công việc kiến trúc, xây dựng nhà máy, kho tàng, khu công nghiệp mới…;

– Chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang làm nghề rừng để cung cấp tre, nứa, gỗ và các loại lâm sản khác cho công nghiệp;

– Chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang làm nghề biển (cá, muối) để cung cấp thực phẩm cho công nhân và nguyên liệu cho công nghiệp;

– Chuyển một bộ phận lao động trồng trọt sang làm chăn nuôi để tăng thêm nguồn thực phẩm cung cấp cho các khu công nghiệp và thành phố;

– Chuyển một bộ phận lao động trồng cây lương thực sang trồng cây công nghiệp để bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp;

– Chuyển một bộ phận lao động ở các vựa lúa hiện nay lên trung du và miền núi khai phá đất mới, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, trồng rừng và chăn nuôi đại gia súc;

– Chuyển một bộ phận lao động sản xuất cho nhu cầu trong nước sang làm nhiệm vụ sản xuất hàng xuất khẩu để đổi lấy máy móc, thiết bị.

Mỗi cuộc phân công lao động xã hội trên đây lại bao gồm nhiều cuộc phân công lao động chiếm quy mô nhỏ hơn, đi vào chi tiết hơn, và tất cả đều nhằm đáp ứng yêu cầu của công nghiệp, đều làm điều kiện cho công nghiệp phát triển.

Đứng về phía nông nghiệp mà xét thì tất cả các cuộc phân công lao động xã hội trên đây đều “lấn” vào lao động nông nghiệp, đặc biệt là lao động trồng lương thực, và đều “sống nhờ” vào năng suất của lao động nông nghiệp, đặc biệt là năng suất của lao động trồng lương thực (xét cho cùng, số lượng những người lao động nông nghiệp làm chăn nuôi, trồng cây công nghiệp, trồng rau và cây ăn quả cũng đều phụ thuộc vào sản phẩm thặng dư của những người lao động nông nghiệp trồng lương thực). Từ đó thấy rằng: nâng cao năng suất lao động nông nghiệp, trước nhất là năng suất của lao động trồng lương thực, là chìa khóa để phân công lại lao động xã hội ở nước ta.

Giả sử khi bước vào thời kì công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, nước ta đã có sẵn một nền nông nghiệp tương đối phát triển, một trình độ tương đối cao về năng suất của lao động nông nghiệp thì việc mở rộng phân công lao động xã hội chắc hẳn sẽ không phụ thuộc nhiều vào việc nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp như vậy; vấn đề đẩy mạnh nông nghiệp làm cơ sở để phát triển công nghiệp, do đó, sẽ không đặt ra một cách bức thiết như vậy.

B- Ở nước ta nông nghiệp cũng có chương trình rất lớn trong việc tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta biết rằng chỉ có lao động thặng dư mới là nguồn tạo ra tích lũy, và lao động thặng dư chỉ bắt đầu ở điểm mà lao động tất yếu chấm dứt. Như vậy, trong điều kiện độ dài của ngày lao động đã được ấn định, muốn kéo dài thời gian lao động thặng dư ra, chỉ có cách là đẩy lùi giới hạn của thời gian lao động tất yếu lại. Tách riêng từng người lao động mà xét cũng vậy, mà gộp chung cả xã hội lại thành một người lao động xã hội duy nhất cũng vậy.

Làm thế nào thu hẹp được thời gian lao động tất yếu mà vẫn không hạ thấp mức sống của người lao động? Như Mác đã từng vạch rõ, điều này hoàn toàn có thể thực hiện được bằng cách nâng cao năng suất lao động ở những ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt. Nếu trước đây, người lao động cần phải bỏ ra 7 giờ trong ngày lao động mới sản xuất đủ số tư liệu sinh hoạt cần thiết cho sự sống của mình, thì nay, nhờ nâng cao năng suất lao động, chỉ cần bỏ ra 6 giờ, 5 giờ cũng đủ để sản xuất ra số tư liệu sinh hoạt ấy. Mức sống của người lao động vẫn được giữ nguyên, nhưng thời gian lao động tất yếu thì đã từ 7 giờ giảm xuống còn 6 giờ, 5 giờ. Thời gian lao động thặng dư vì thế mà đã từ 1 giờ kéo dài thành 2 giờ, 3 giờ, trong khi ngày lao động 8 tiếng vẫn không thay đổi.

Nói cho đúng thì dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, không có khái niệm lao động thặng dư. Toàn bộ ngày công lao động đều là lao động cho mình, lao động tất yếu. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người lao động và sản phẩm của ngày lao động không còn chia làm hai bộ phận nữa. Một bộ phận dành cho tiêu dùng trước mắt mà mức tối thiểu đủ để nuôi sống và tái sản xuất ra bản thân người lao động. Bộ phận còn lại vượt quá nhu cầu tiêu dùng trước mắt của người lao động, vì vậy, có thể tích lũy lại (tích lũy cũng là để sau này tiêu dùng, và tiêu dùng nhiều hơn), hoặc đem dùng vào các công việc khác, cũng không ngoài lợi ích của người lao động. Chúng ta gọi bộ phận thứ nhất là lao động tất yếu và sản phẩm tất yếu, còn bộ phận thứ hai là lao động thặng dư và sản phẩm thặng dư. “Tất yếu” và “thặng dư” ở đây không mang một chút gì gọi là quan hệ bóc lột và bị bóc lột như nó đã mang dưới chủ nghĩa tư bản. Đó chỉ là sự phân chia sản phẩm của người lao động theo cách sử dụng khác nhau và thời gian sử dụng khác nhau mà thôi. Sự phân chia ấy là một tất yếu khách quan, do chính sản xuất đòi hỏi. Nó cũng phù hợp với lợi ích của bản thân người lao động. Như vậy, theo cách phân chia này, lao động thặng dư vẫn là nguồn duy nhất tạo ra tích lũy, và trong điều kiện độ dài của ngày lao động đã được ấn định thì việc đẩy lùi giới hạn của lao động tất yếu vẫn là con đường duy nhất để tăng thêm lao động thặng dư.

Trong tình hình cụ thể của nước ta hiện nay, việc đẩy lùi giới hạn của lao động tất yếu có ý nghĩa đặc biệt cấp thiết. Lẽ thứ nhất, vì độ dài của ngày lao động đã được ấn định. Lẽ thứ hai, vì thời gian lao động tất yếu đang chiếm gần hết cả ngày lao động xã hội.

Muốn đẩy lùi giới hạn của lao động tất yếu thì chủ yếu và trước hết phải thu hẹp lao động nông nghiệp lại. Như mọi người đều biết, lao động nông nghiệp hiện còn chiếm tới trên 70% tổng số lao động xã hội (10 năm trước đây là 80%). Nói cách khác nghĩa là: chỉ kể riêng những tư liệu sinh hoạt lấy từ nông nghiệp, lao động tất yếu đã chiếm trên 70% ngày công lao động xã hội rồi! Tác động vào lao động nông nghiệp, vì vậy, là tác động vào địa bàn rộng lớn nhất của lao động tất yếu.

Trong công việc này, chúng ta có được những thuận lợi rất lớn: đầu tư có thể chưa cần nhiều, kĩ thuật có thể chưa cần cao, vậy mà, với những tiềm lực hiện có của nông nghiệp, với những điều kiện thiên nhiên thuận lợi, đã có thể đưa năng suất lao động lên những bước nhảy quan trọng. Chứng cớ là đã có hàng chục vạn héc ta, từ mức 4 tấn trước đây, nay đạt 5 tấn và trên 5 tấn thóc bình quân một héc ta cả năm.

Lao động nông nghiệp thu hẹp lại đến đâu thì lao động công nghiệp (và cùng với nó: kiến trúc, giao thông vận tải, v.v…) có đất để bành trướng ra đến đó. Khác với lao động nông nghiệp thuộc loại lao động tất yếu, lao động công nghiệp chỉ có thể sinh ra và lớn lên trên miếng đất của lao động thặng dư, nói cụ thể hơn là trên miếng đất của tích lũy ban đầu. Nhưng, một khi đã xuất hiện, nó liền trở thành đòn bẩy mạnh nhất của tích lũy: một mặt, vì sử dụng kĩ thuật hiện đại cho nên nó có tỉ lệ tích lũy cao; mặt khác, bằng cách cung cấp kĩ thuật hiện đại cho các thứ lao động khác, nó làm cho các thứ lao động này cũng trở thành lao động có năng suất cao và tích lũy cao. Như vậy, thu hẹp lao động nông nghiệp không những là thu hẹp thời gian lao động tất yếu để kéo dài thời gian lao động thặng dư ra mà còn có nghĩa là thay thế thứ lao động có năng suất thấp và tỉ lệ tích lũy thấp bằng thứ lao động có năng suất cao và tỉ lệ tích lũy cao.

Lao động nông nghiệp tham gia vào việc tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa không những bằng cách thu hẹp địa bàn của nó lại với tư cách là lao động tất yếu mà còn bằng cách ngược lại: mở rộng địa bàn của nó ra với tư cách là lao động thặng dư. Lao động nông nghiệp bỏ vào việc sản xuất nông sản xuất khẩu để đổi lấy máy móc thiết bị không phải là lao động tất yếu như lao động nông nghiệp bỏ vào việc sản xuất nông sản tiêu dùng trong nước, mà là lao động thặng dư y như lao động bỏ vào công nghiệp, vào kiến trúc, v.v… Vì vậy, quy mô của nó cũng phụ thuộc vào khối lượng sản phẩm mà những người lao động trong nông nghiệp, trước nhất là những người sản xuất lương thực, thực phẩm, có khả năng sản xuất thặng dư ra ngoài mức tiêu dùng của họ.

Ai cũng biết nhân dân ta rất cần nhiều đất trồng trọt (10 người mới có một héc ta), vậy mà đất trồng trọt chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ (14%) trong tổng diện tích miền Bắc nước ta; còn hàng vạn héc ta đất phù sa bồi vùng ven biển, hàng chục vạn héc ta đất đồi vùng trung du và miền núi – rất thích hợp cho việc chăn nuôi đại gia súc và trồng cây công nghiệp, cây ăn quả (cói, chè, cam, dứa, sả, v.v…) – vẫn chưa được bàn tay người động tới. Phải chăng vì ông cha ta chỉ cần lương thực mà không cần đại gia súc, cây công nghiệp và cây ăn quả? Phải chăng vì nông dân ta chưa thấy cái lợi của việc trồng cây công nghiệp và cây ăn quả? Đương nhiên không phải như vậy. Vấn đề chỉ là ở chỗ: năng suất quá thấp của lao động nông nghiệp chưa cho phép chúng ta vượt khỏi cái cửa ải của lao động tất yếu – lương thực – để đi tới những nguồn của cải to lớn dành riêng cho lao động thặng dư. Chúng ta hãy thử làm một con tính.

Miền tây Nghệ An là một vùng đất đỏ đặc biệt màu mỡ, rất thích hợp, mà cũng chỉ thích hợp với cây lưu niên. Một héc ta đất trồng cây lưu niên ở đây cho ta một lượng sản phẩm trị giá bằng hai, ba héc ta ruộng trồng lúa ở đồng bằng. Tuy nhiên, để khai phá và trồng trọt một vạn héc ta, chúng ta phải đưa vào đây, suốt 10 năm nay, 3 vạn nhân khẩu (13.000 lao động) và một số vốn đầu tư cơ bản tương đương 25 vạn tấn thóc. Lương thực của ba vạn nhân khẩu này chỉ có thể lấy từ sản phẩm thặng dư của những người trồng lương thực. Ta biết rằng, với trình độ năng suất lao động của khu vực sản xuất lương thực hiện nay thì phải 3 hay 4 nhân khẩu sản xuất lương thực mới gánh nổi một nhân khẩu không sản xuất lương thực! Như vậy, phải có từ 9 đến 12 vạn nhân khẩu sản xuất lương thực mới gánh nổi 3 vạn nhân khẩu trồng cây công nghiệp và cây ăn quả. Đó là chưa nói đến số sản phẩm nông nghiệp thặng dư hàng năm tương đương 2 vạn rưỡi tấn thóc bỏ vào vốn đầu tư cơ bản. Nếu số vốn này cũng bắt nguồn từ lương thực thặng dư thì nó phải là sản phẩm của nửa triệu nhân khẩu sản xuất lương thực!

Qua con tính đơn giản trên đây, ta thấy việc khai hoang vùng trung du và miền núi nói chung, việc khai hoang để sản xuất nông sản xuất khẩu nói riêng, phụ thuộc đến mức nào năng suất lao động của những người hiện nay sản xuất lương thực! Không có sẵn lương thực thặng dư thì không thể duy trì nổi một đội quân khai hoang quy mô lớn. Nếu vì không có sẵn lương thực thặng dư mà buộc những người khai hoang phải cưỡng lại quy luật tự nhiên: cạo trọc đồi núi để trồng cây lương thực, thì tránh sao khỏi sự trừng phạt của tự nhiên? Tất nhiên, chúng ta có thể bắt đồi núi cung cấp cho ta lương thực bằng cách đem sản phẩm của nó – cây công nghiệp, hoa quả – đổi cho nước ngoài lấy lương thực về. Nhưng, như thế thì lao động sản xuất nông sản xuất khẩu không còn là một nguồn tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa nữa, không còn là lao động thặng dư nữa. Nó đã biến thành lao động tất yếu mất rồi.

Từ một nền kinh tế nông nghiệp tiến lên công nghiệp hóa, hầu như bất cứ nước nào cũng vậy, đều phải trải qua một thời kì xuất khẩu nông sản và khoáng sản để nhập khẩu máy móc thiết bị; mới đầu còn xuất hàng thô, sau tiến lên xuất hàng sơ chế và tinh chế. Nước ta có nhiều điều kiện thiên nhiên thuận lợi để khai thác cả hai nguồn của cải đó, nhất là nguồn của cải nông sản. Nhưng, để biến khả năng thành hiện thực, phải tạo ra một điều kiện tiên quyết: năng suất của lao động nông nghiệp phải được nâng cao đến mức có thể chuyển được một bộ phận lao động nông nghiệp sang công việc khai hoang nhằm sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả xuất khẩu.

Lao động nông nghiệp, với ỹ nghĩa lao động tất yếu phải được thu hẹp lại để kéo dài một cách tương ứng lao động thặng dư – nguồn gốc duy nhất của tích lũy. Mặt khác, với ý nghĩa là lao động thặng dư sản xuất ra nông sản xuất khẩu để đổi lấy máy móc thiết bị, nó phải được triển khai trên quy mô ngày càng rộng lớn. Bằng hai hướng đó, nông nghiệp sẽ biến thành nguồn tích lũy vốn ban đầu to lớn nhất, làm cơ sở vững chắc cho công nghiệp phát triển.

C- Một vấn đề gay gắt đặt ra cho chúng ta trên con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: phải tăng nhanh tích lũy để tiến nhanh lên hiện đại hóa, đồng thời phải thực hiện ngay việc phân phối xã hội chủ nghĩa, cải thiện đời sống nhân dân, làm thế nào thực hiện được cả hai mục tiêu ấy cùng một lúc?

Ai cũng biết tích lũy và tiêu dùng là hai bộ phận chế ước lẫn nhau của cùng một đại lượng: thu nhập quốc dân. Nếu dốc sức và việc xây dựng công nghiệp nặng thì sớm dựng lên được cái nền tảng của nền kinh tế dân tộc tự chủ, nhưng về mặt đời sống, nhất định không thể tránh được những hy sinh và hạn chế nghiêm trọng. Tình thế không bức bách chúng ta phải đi theo con đường đó. Vì vậy, Đảng ta đã lựa chọn con đường: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời và trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Chúng ta không chủ trương gấp rút xây dựng một nền công nghiệp nặng hoàn chỉnh, mà chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, sát với nhu cầu của ta, mà cũng hợp với nhu cầu của ta. Việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý lại phải được tiến hành trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Như vậy thì tích lũy đỡ căng thẳng, giữa tích lũy và tiêu dùng có sự cân đối nhất định.

Nông nghiệp là một nguồn tích lũy nguyên thủy to lớn, nhưng nông nghiệp cũng là ngành quyết định nhất đối với đời sống hiện nay của nhân dân ta (lương thực và thực phẩm hiện còn chiếm tới trên dưới 70% tổng số chi trong ngân sách gia đình của công nhân, viên chức cũng như của nông dân nước ta). Phát triển mạnh nông nghiệp thì tích lũy tăng nhanh, đời sống cũng mau chóng được cải thiện. Mà cải thiện đời sống, như chúng ta đã biết, chẳng những là vấn đề chế độ xã hội, nó còn là một đòn bẩy rất mạnh mẽ đối với sản xuất nữa.

D- Đặt việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ còn là xuất phát từ yêu cầu của quy luật phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân.

Đứng về mặt giá trị mà xét thì phát triển công nghiệp nặng trước hết có nghĩa là tích lũy. Phải “chất đống” vốn tích lũy năm này qua năm khác dưới hình thái nhà xưởng, thiết bị máy móc, và chỉ 2-3 năm sau, 5-10 năm sau thì mới bắt đầu thấy hiệu quả, bắt đầu có sản phẩm để đưa vào lưu thông. Trong thời gian xây dựng cơ bản ấy, chỉ có sự vận động một chiều của sản phẩm lao động: rút ra khỏi lưu thông để “đóng cứng lại” thành tài sản cố định. Như vậy thì lấy gì nuôi sống người lao động trong thời gian ấy? Đặt vấn đề như vậy cũng tức là nêu lên sự cân đối tất yếu giữa tích lũy và tiêu dùng. Nội dung của sự cân đối là: quy mô của tích lũy phải được quyết định như thế nào để khỏi làm hại đến sự tiêu dùng bình thường của xã hội, cũng tức là khỏi vượt quá sức chịu đựng của xã hội.

Tích lũy, xét cho đến cùng, cũng là để tiêu dùng. Nhưng sự tiêu dùng này không diễn ra ngay bây giờ mà sau một thời hạn nhất định, nó mới được phép diễn ra. Trong khoảng cách về thời gian ấy, người sản xuất không thể ngừng tiêu dùng, xã hội cũng không thể ngừng tiêu dùng. Như vậy, bên cạnh những xí nghiệp công nghiệp nặng đang thực hiện chức năng tích lũy, phải có những xí nghiệp khác, những ngành sản xuất khác, không ngừng ném sản phẩm của nó vào lưu thông để cung ứng cho sự tiêu dùng của xã hội. Mác viết:

“Trên cơ sở một nền sản xuất xã hội hóa thì cần phải ấn định quy mô mà những doanh nghiệp như thế có thể tiến hành được, những doanh nghiệp này thu hút được lao động và tư liệu sản xuất trong một thời gian khá lâu, nhưng trong thời gian đó lại không cung cấp một sản phẩm nào dưới hình thái hiệu quả có ích; sẽ phải quy định rõ trong quy mô nào những doanh nghiệp đó có thể tiến hành được mà không làm hại tới những ngành sản xuất khác, những ngành này, một cách liên tục hay mỗi năm nhiều lần, không phải chỉ lấy sức lao động và tư liệu sản xuất, mà còn cung cấp tư liệu sinh hoạt và tư liệu tiêu dùng nữa”.

“Thu hút lao động và tư liệu sản xuất trong một thời gian khá lâu, nhưng trong thời gian đó lại không cung cấp một sản phẩm nào dưới hình thái hiệu quả có ích cả”, đó chính là đặc trưng của những xí nghiệp công nghiệp đang xây dựng, đặc biệt là những xí nghiệp công nghiệp nặng. Còn nông nghiệp, nó chính là ngành “một cách liên tục hay mỗi năm nhiều lần không phải chỉ lấy sức lao động và tư liệu sản xuất, mà còn cung cấp tư liệu sinh hoạt và tư liệu sản xuất nữa. Giữa hai loại ngành nói trên phải có một thế cân đối nhất định mà nội dung là: quy mô của loại thứ nhất phải được quy định như thế nào để không làm hại tới loại thứ hai, cũng tức là không làm hại tới sự tiêu dùng bình thường của xã hội. Nếu chỉ một chiều dốc sức vào việc xây dựng công nghiệp nặng, thì mọi ngành kinh tế khác ắt phải khô cằn, cuối cùng, chính công nghiệp nặng cũng không thể tiếp tục phát triển trong tình trạng mất cân đối đó được nữa.

Sự mất cân đối giữa công nghiệp nặng và nông nghiệp cũng là sự cân đối giữa sản xuất tư liệu sản xuất (khu vực I) và sản xuất tư liệu tiêu dùng (khu vực II), đứng về mặt hiện vật mà xét. Nội dung của sự cân đối đó bao hàm trong lý luận của Mác về tái sản xuất xã hội: khu vực I phải cung cấp – và cung cấp đủ số, đủ loại – tư liệu sản xuất cho khu vực II, và ngược lại, khu vực II phải cung cấp – và cung cấp đủ số, đủ loại – tư liệu tiêu dùng cho khu vực I; cái nọ làm thị trường cho cái kia. Chẳng phải đợi đến khi xây dựng xong mà ngay trong quá trình hình thành của nó, công nghiệp nặng đã đòi hỏi thị trường của nó (do những xí nghiệp và phân xưởng đã xây dựng xong sản xuất ra). Như vậy, nếu chỉ một chiều dốc sức vào công nghiệp nặng thì ngoài những sự mất cân đối khác, còn xảy ra tình trạng thừa ứ sản phẩm công nghiệp nặng, tình trạng sớm muộn sẽ làm tắc nghẽn mọi sự tuần hoàn trong nền kinh tế, trước nhất là sự tuần hoàn của bản thân công nghiệp nặng. Chúng ta đang trong bước đầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, vậy mà đã có lúc chúng ta đứng trước tình hình thừa ứ nông cụ, máy móc nông nghiệp, v.v… Tình hình đó có nhiều nguyên nhân, song, một trong những nguyên nhân chính là: chúng ta không kịp thời khơi nguồn tiêu thụ cho công nghiệp nặng bằng cách phát triển nông nghiệp (và công nghiệp nhẹ) một cách tương ứng.

Như vậy, để thực hiện được thuận lợi nhiệm vụ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng thì nông nghiệp (và công nghiệp nhẹ) phải phát triển với quy mô và tốc độ thích hợp nhằm bảo đảm cung cấp đủ tư liệu tiêu dùng cho công nghiệp nặng, đồng thời tạo ra thị trường rộng lớn cho sản phẩm của công nghiệp nặng. Về phía công nghiệp nặng, nó phải lấy mục tiêu phục vụ cho nông nghiệp (và công nghiệp nhẹ) phát triển là mục tiêu chủ yếu của nó, sao cho mỗi bước phát triển của công nghiệp nặng đều trở thành đòn bẩy mạnh mẽ đối với nông nghiệp (và công nghiệp nhẹ). Làm như vậy tức là tạo điều kiện cho chính công nghiệp nặng phát triển. Đồng chí Lê Duẩn nhấn mạnh: “Nếu triển khai công nghiệp nặng mà không nhằm đẩy mạnh nông nghiệp và công nghiệp nhẹ thì thực tế không những không phát triển được công nghiệp nặng, mà còn làm nghiêm trọng thêm tình trạng không cân đối vốn có của nền kinh tế, tạo thêm nhiều khó khăn và làm cản trở toàn bộ nền kinh tế quốc dân”.

Như trên ta thấy, trong bước đi ban đầu của nước ta trên con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, nông nghiệp có vị trí cực kỳ quan trọng.

 Chính năng suất của lao động nông nghiệp là chìa khóa của sự phân công lao động mới. Nó quyết định quy mô của mọi thứ lao động khác, kể cả lao động công nghiệp.

Năng suất của lao động nông nghiệp cũng là chìa khóa của mọi nguồn tích lũy đầu tiên. Nó quyết định giới hạn của lao động tất yếu, do đó, quyết định điểm xuất phát của lao động thặng dư.

Với những tiềm lực sẵn có, với những điều kiện thiên nhiên thuận lợi, nông nghiệp nước ta nhất định phải trở thành một trong những nguồn hàng lớn nhất dành cho xuất khẩu để đổi lấy máy móc thiết bị. Quy mô của nguồn hàng này, trên một mức độ rất lớn, quyết định tốc độ của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Sự phát triển của nông nghiệp còn có ý nghĩa quyết định đối với mức sống của nhân dân ta. Vừa phải tích lũy để tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa lại vừa phải chăm lo cải thiện đời sống nhân dân thì không thể không nhấn mạnh sự phát triển của nông nghiệp.

Cuối cùng, nông nghiệp không những là nguồn cung cấp lao động, lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp, nó còn là thị trường tiêu thụ những sản phẩm của công nghiệp. Quy luật phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân đòi hỏi nông nghiệp phải phát triển tương ứng với sự phát triển của công nghiệp, sao cho sự tuần hoàn vật chất giữa hai ngành sản xuất cơ bản này của xã hội luôn luôn tiến hành được hài hòa, theo đúng tỉ lệ cần thiết. Quy luật cân đối cũng đòi hỏi giữa tích lũy và tiêu dùng phải có tỉ lệ nhất định, tỉ lệ này chủ yếu biểu hiện qua tốc độ phát triển của công nghiệp và nông nghiệp.

Vai trò trên đây của nông nghiệp gắn liền với đặc điểm của nước ta – một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên xây dựng nền sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp trong bước đi ban đầu tức là nhìn vào thực trạng kinh tế nước ta, đồng thời cũng là nhìn vào tiềm lực to lớn của nông nghiệp, nhìn vào những triển vọng to lớn mà nông nghiệp, một khi phát triển, sẽ mở ra cho công nghiệp và cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Nói nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp nặng, trong chừng mực nhất định, cũng là nói vai trò của công nghiệp nhẹ. Bởi vì công nghiệp nhẹ cũng là một nguồn tư liệu tiêu dùng, một nguồn tích lũy, một nguồn hàng xuất khẩu và một thị trường của công nghiệp nặng. Đương nhiên, công nghiệp nhẹ không có được một vị trí to lớn như như nông nghiệp, xét về tác dụng mở đường cho công nghiệp nặng cũng như xét về tỷ trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa, sự phát triển của công nghiệp nhẹ, trong chừng mực rất lớn, lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của công nghiệp nặng và nông nghiệp (phụ thuộc về máy móc, thiết bị, nguyên liệu, lương thực, v.v…) song không phải vì thế mà công nghiệp nhẹ không có vai trò quan trọng trong việc phát triển công nghiệp nặng cũng như trong việc phát triển nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Là ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ là khâu kế tiếp công nghiệp nặng và nông nghiệp trong dây chuyền sản xuất nhất loại sản phẩm. Không có khâu cuối cùng này thì kim loại, chất dẻo, gỗ… không thể biến thành những vật phẩm có ích, sẵn sàng đi vào tiêu dùng cá nhân được. Đối với nhiều loại sản phẩm nông nghiệp, tình hình cũng như vậy. Công nghiệp nhẹ tạo cho sản phẩm nông nghiệp cái hình thái thích hợp để đi vào tiêu dùng. Trong rất nhiều trường hợp nó bảo đảm cho sản phẩm nông nghiệp khỏi bị hủy hoại trong khi chờ đợi để đi vào tiêu dùng. Vì vậy, đặt vấn đề phát triển mạnh công nghiệp nặng và nông nghiệp mà không đồng thời chăm lo phát triển công nghiệp nhẹ một cách cân xứng thì sẽ không tránh khỏi những hậu quả tai hại. Nền nông nghiệp nước ta còn xa mới đáp ứng được nhu cầu, vậy mà đã có lúc, có nơi, chúng ta thừa mía – vì thiếu nhà máy đường; thừa chè tươi – vì thiếu nhà máy chè; thừa hạt có dầu – vì thiếu nhà máy ép dầu; thừa khoai sắn – vì thiếu xưởng thái lát, sấy khô, v.v… Chính trong những trường hợp như vậy người ta mới thấy vai trò của công nghiệp nhẹ nổi bật lên như là điều kiện để phát triển nông nghiệp. Đối với công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ chẳng những là khâu kế tiếp trong việc chế biến nguyên liệu thành vật phẩm tiêu dùng mà còn là một thị trường tiêu thụ sản phẩm – nguyên liệu, nhiên liệu, thiết bị máy móc, v.v… Một sự trì trệ nào đó trong công nghiệp nhẹ nhất định sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của công nghiệp nặng.

Trên kia, chúng ta đã nghiên cứu nông nghiệp với ý nghĩa là ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt cho toàn bộ xã hội và lao động nông nghiệp với ý nghĩa là lao động tất yếu – đứng trên quan điểm toàn xã hội. Những nhận xét rút ra về điểm này cũng có giá trị hoàn toàn đối với công nghiệp nhẹ. Nâng cao được năng suất lao động trong công nghiệp nhẹ – một trong hai ngành chủ yếu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt – cũng có tác dụng đẩy lùi giới hạn của lao động tất yếu, từ đó mà mở rộng địa bàn cho lao động thặng dư.

Đứng trên quan điểm toàn xã hội mà xét là như vậy, còn đứng trên quan điểm kinh doanh mà xét thì công nghiệp nhẹ cũng là ngành đem lại tích lũy nhanh và nhiều. Vốn đầu tư vào công nghiệp nhẹ không nhiều, nhưng chu chuyển nhanh, do đó, khối lượng lao động thặng dư sáng tạo ra tương đối mới, hiệu quả của vốn đầu tư tương đối cao. Vì phần lớn sản phẩm nông nghiệp phải trải qua công nghiệp nhẹ chế biến rồi mới đi vào lưu thông cho nên một bộ phận lao động thặng dư do nông nghiệp sáng tạo ra cũng thông qua công nghiệp nhẹ mà được thực hiện. Đối với công nghiệp nặng, tình hình này càng rõ hơn. Trong thời kì thực hiện cách mạng kĩ thuật, Nhà nước xã hội chủ nghĩa thường áp dụng chính sách giá cả thấp (nói chung là thấp so với giá trị, có trường hợp thấp so với của giá thành) đối với phần lớn sản phẩm công nghiệp nặng nhằm khuyến khích nông dân tập thể và các xí nghiệp xã hội chủ nghĩa sử dụng kĩ thuật mới. Như vậy, lao động thặng dư sáng tạo ra trong công nghiệp nặng được chuyển cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nó sẽ thông qua giá bán sản phẩm của ngành này mà được thực hiện. Vì những lẽ như trên, Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể thông qua việc kinh doanh công nghiệp nhẹ mà tập trung vào tay mình một bộ phận quan trọng lao động thặng dư do nhiều ngành kinh tế quốc dân sáng tạo ra.

Công nghiệp nhẹ có vai trò to lớn chẳng những đối với tích lũy xã hội chủ nghĩa, mà đối với cả đời sống nữa. Vừa phải tích lũy để thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, lại vừa chăm lo cải thiện đời sống nhân dân thì không thể không chăm lo phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ – hai nguồn tích lũy to lớn đồng thời là hai nguồn tư liệu tiêu dùng to lớn. Hơn nữa, xã hội càng phát triển thì những tư liệu tiêu dùng do công nghiệp chế tạo ra càng có vai trò quan trọng hơn trong đời sống. Ngay sản phẩm nông nghiệp cũng buộc phải trải qua bàn tay chế biến của công nghiệp nhẹ ngày càng nhiều.

Trong khi cung cấp ngày càng nhiều tư liệu tiêu dùng cho nhân dân (trong đó nông dân chiếm đa số) thì công nghiệp nhẹ đã đồng thời thực hiện một nhiệm vụ chính trị hàng đầu: thắt chặt liên minh công nông. Nội dung chủ yếu của liên minh này trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội là: giai cấp nông dân cung cấp cho Nhà nước xã hội chủ nghĩa lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cần thiết, còn Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì cung cấp cho nông dân tư liệu sản xuất để phát triển nông nghiệp và hàng tiêu dùng công nghiệp. Nếu trong một thời gian nào đó, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã không cung cấp được đủ hàng công nghiệp cho nông dân, trong khi vẫn phải động viên lương thực, thực phẩm và nguyên liệu do nông dân sản xuất ra, thì đó chỉ là một tình hình đặc biệt, tạm thời. Lênin đã từng nhận xét về tình hình ấy ở Liên Xô (sau thời kì nội chiến như sau):

“Chiến tranh và tình trạng hoang tàn đã buộc chúng ta phải thi hành chủ nghĩa cộng sản thời chiến”. Nó không phải và không thể là một chính sách phù hợp với nhiệm vụ kinh tế của giai cấp vô sản. Đó là một biện pháp tạm thời. Đối với giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chuyên chính của mình trong một nước tiểu nông thì một chính sách đúng là phải tổ chức việc trao đổi những sản phẩm công nghiệp cần thiết cho nông dân để lấy lúa mì. Chỉ có chính sách lương thực ấy mới phù hợp với nhiệm vụ của giai cấp vô sản; chỉ có chính sách đó mới có thể tăng cường được cơ sở của chủ nghĩa xã hội và đưa chủ nghĩa xã hội đến chỗ toàn thắng.

“Thuế lương thực đánh dấu một bước quá độ tiến lên chính sách ấy. Chúng ta đang còn mắc vào tình hình hoang tàn, bị gánh nặng của chiến tranh đè ép… đến nỗi chúng ta không thể cung cấp cho nông dân đầy đủ những sản phẩm công nghiệp để đổi lấy tất cả lúa mì mà chúng ta cần dùng. Do đó, chúng ta đặt ra thuế lương thực tức là chúng ta thu số lúa mì tối thiểu cần thiết với danh nghĩa thuế (để nuôi quân đội và công nhân); ngoài ra chúng ta sẽ trao đổi bằng các sản phẩm công nghiệp”.

Ngày nay, ở nước ta, gánh nặng của cuộc chống Mĩ cứu nước cũng không cho phép Nhà nước xã hội chủ nghĩa có đủ sản phẩm công nghiệp – cả tư liệu sản xuất lẫn hàng tiêu dùng công nghiệp – để đổi lấy tất cả số sản phẩm nông nghiệp mà Nhà nước cần dùng. Chúng ta đánh giá rất cao tinh thần yêu nước nồng nàn và căm thù giặc sâu sắc của nông dân ta, những người đã và đang góp phần cống hiến to lớn vào cuộc kháng chiến thần thánh dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên, không phải vì thế mà coi nhẹ việc phấn đấu theo hướng mà Lênin đã chỉ ra: tiến tới cung cấp cho nông dân đủ sản phẩm công nghiệp để đổi lấy tất cả số nông sản mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa huy động; trước mắt, ít ra cũng là để đổi lấy tất cả số nông sản mà Nhà nước huy động, ngoài khoản đóng góp trực tiếp của nông dân là thuế nông nghiệp. Kết hợp được tinh thần yêu nước, ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa, với những lợi ích thiết thân của nông dân như vậy thì càng khuyến khích được nông dân ra sức đẩy mạnh sản xuất, làm cho liên minh công nông thêm vững chắc.

Trong điều kiện của nước ta, công nghiệp nhẹ có thể và phải đóng một vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu nhằm đổi lấy máy móc thiết bị cần thiết cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Vì nhiều loại nông sản không trở thành hàng xuất khẩu được nếu không qua sơ chế hoặc tinh chế, cho nên nông nghiệp muốn trở thành nguồn hàng xuất khẩu to lớn, nhất thiết phải có công nghiệp nhẹ trợ lực. Nguồn nông sản lớn bao nhiêu thì quy mô của công nghiệp nhẹ cũng phải lớn bấy nhiêu. Như vậy, đã chủ trương đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nhất là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp nhằm mục đích xuất khẩu, thì không thể không chăm lo phát triển mạnh công nghiệp nhẹ.

Ngoài việc làm trợ thủ cho nông nghiệp, công nghiệp nhẹ còn có lực lượng xuất khẩu “riêng” của nó. Đó là nguồn nhân công dồi dào và nguồn thổ sản phong phú của nước ta. Ai cũng biết, ở những nước chậm phát triển, nhân lực thường là chưa được sử dụng đầy đủ. Mức sống ở đây lại rất thấp. Công nghiệp nhẹ vừa có khả năng biến những nhân lực “thừa” và “rẻ mạt” này thông qua con đường nhập khẩu hàng hóa thành những máy móc thiết bị quý giá. Hướng kinh doanh chủ yếu là gia công (dùng nguyên liệu và có thể cả thiết nhập khẩu) và chế biến thổ sản thành hàng thủ công mỹ nghệ và những hàng tiêu dùng khác. Sẵn có bàn tay khéo léo và đầu óc thông minh sáng tạo, người công nhân và người thợ thủ công Việt Nam hoàn toàn có khả năng đáp ứng nhiệm vụ đó.

Trên đây, chúng ta đã xem xét vai trò của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhẹ trong thế phát triển cân đối với công nghiệp nặng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng. Kết quả của sự nghiên cứu càng làm rõ thêm tính chất phi lý của việc nhấn mạnh một chiều của sự phát triển ưu tiên của công nghiệp nặng. Muốn thực hiện có kết quả việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, muốn xây dựng thành công nền công nghiệp nặng trong một thời gian lịch sử tương đối ngắn thì không phải chỉ một chiều nhấn mạnh công nghiệp nặng mà được, không phải cứ một chiều dốc sức vào công nghiệp nặng mà được. Trái lại, phải đồng thời chăm lo đến những điều kiện để phát triển công nghiệp nặng, làm sao cho những điều kiện ấy không phải ngày càng khô kiệt đi, mà ngày càng dồi dào hơn lên. Những điều kiện ấy là vốn tích lũy, đặc biệt là vốn tích lũy ban đầu, là lương thực, thực phẩm, nguyên liệu và lao động mà nông nghiệp có khả năng cung cấp dôi ra ngoài nhu cầu của bản thân nó, là hàng xuất khẩu để đổi lấy máy móc thiết bị, là một sự phân công lao động xã hội phát triển, là một đời sống vật chất và văn hóa phong phú, là thị trường cho sản phẩm của công nghiệp nặng, là sự phát triển cân đối giữa các khâu của nền kinh tế quốc dân, giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa khu vực I và khu vực II, giữa khâu khai thác và chế biến, v.v… Những điều kiện này trước hết gắn liền với sự phát triển của nông nghiệp (ngoài ra là sự phát triển của công nghiệp nhẹ). Có được những điều kiện này thì việc xây dựng công nghiệp nặng mới có thể triển khai với quy mô ngày càng lớn, và cùng với nó là việc xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng kinh tế trung ương đồng thời phát triển kinh tế địa phương

Từ một nền kinh tế nông nghiệp tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đặc điểm đó chẳng những in dấu vết lên mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong bước đi ban đầu như đã trình bày ở trên, mà còn dẫn tới một kết luận quan trọng nữa: tất yếu phải phát triển kinh tế địa phương đồng thời với việc xây dựng kinh tế trung ương. Đồng chí Lê Duẩn viết:

“Quá trình phát triển kinh tế khách quan ở nước ta hiện nay đang đặt ra những vấn đề có tính chất toàn quốc đồng thời với những vấn đề có tính chất địa phương, những tỷ lệ cân đối, trong phạm vi toàn quốc đồng thời với những tỷ lệ cân đối trong phạm vi từng địa phương. Bên cạnh những ngành kinh tế và những xí nghiệp chỉ có thể phát triển nếu đặt dưới sự quản lý tập trung của trung ương, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước ta còn bao gồm một số ngành kinh tế và xí nghiệp chỉ có thể phát triển thuận lợi nếu đặt dưới sự quản lý của các địa phương. Nếu không nhìn nhận thực tế khách quan đó của đời sống kinh tế, không phân biệt những vấn đề có tính chất toàn quốc và những vấn đề có tính chất địa phương thì sẽ hạn chế sự phát triển hợp quy luật của bản thân nền kinh tế nước ta chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Như mọi người đều biết, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thống nhất toàn quốc, đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của trung ương, về sản xuất cũng như về trao đổi, phân phối. Điều này là do chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa quyết định. Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa cùng phương thức quản lý tập trung thống nhất nền kinh tế gắn liền với nó trở thành tất yếu lịch sử là vì những lực lượng sản xuất hiện đại “đã trở nên quá lớn mạnh đến nỗi ngoài phương thức quản lý của xã hội, không còn có phương thức nào quản lý nổi được nữa”.

Việc quản lý tập trung thống nhất nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do trung ương thực hiện, vì trung ương là đại biểu tập trung của xã hội, là đại biểu tập trung của toàn dân. Song, nếu chỉ dừng lại ở chỗ đó thì sẽ hạn chế quyền làm chủ tập thể của các cấp dưới và của nhân dân lao động, rơi vào chủ nghĩa tập trung quan liêu – trái với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đã là quyền làm chủ tập thể thì quyền đó phải được thực hiện ở mọi cấp, mọi ngành, mọi thành viên của nhân dân lao động. Quyền làm chủ tập thể của mọi cấp, mọi ngành, mọi thành viên của nhân dân lao động dĩ nhiên không được mâu thuẫn với sự lãnh đạo tập trung thống nhất của trung ương mà phải phục tùng sự lãnh đạo đó. Nó làm cho sự lãnh đạo đó càng thêm cụ thể, sinh động. Phát huy được quyền làm chủ tập thể này thì phát huy được trí tuệ, tinh thần và sức lực của toàn dân vào việc phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Mặt khác, nhìn vào đối tượng quản lý, chúng ta không thể không thừa nhận sự thật là: trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, có nước lực lượng sản xuất to lớn (đại công nghiệp, đường sắt, v.v…) mà ngoài phương thức quản lý tập trung thống nhất của xã hội ra, không có phương thức nào khác quản lý nổi; nhưng, bên cạnh đó còn có một số lực lượng sản xuất mà tầm quan trọng không vượt ra ngoài phạm vi của một địa phương – lớn hay nhỏ. Những lực lượng sản xuất có tính chất địa phương này, nếu thâu tóm tất cả dưới sự quản lý trực tiếp của trung ương thì chẳng những trung ương không thể sát hết được, không thể lo xuể, mà hơn nữa, cũng không cần thiết và có lợi – xét theo lợi ích của chủ nghĩa xã hội. Trao việc quản lý những lực lượng sản xuất này cho các địa phương đó là phương thức quản lý thích hợp nhất, vừa phát huy được quyền làm chủ tập thể của các địa phương vừa thuận lợi cho việc quản lý, chăm sóc và phát triển các lực lượng sản xuất ấy. Trong trường hợp này, sự lãnh đạo tập trung thống nhất của trung ương được bảo đảm thông qua những phương hướng lớn, chính sách lớn cùng những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước.

Lênin đã từng chỉ ra như sau:

“Nếu chế độ tập trung dân chủ không mảy may phủ nhận chế độ tự trị và chế độ liên bang thì cơ sở tập trung dân chủ đó cũng không những không mảy may phủ nhận tự do đầy đủ nhất của các hình thức sinh hoạt Nhà nước, hình thức sinh hoạt xã hội, hình thức sinh hoạt kinh tế mà các khu vực, thậm chí các tập đoàn công xã trong nước định ra, trái lại, nó còn lấy sự tồn tại của thứ tự đó làm tiền đề. Lẫn lộn chủ nghĩa tập trung dân chủ với chủ nghĩa quan liêu và bệnh bo bo giữ nếp cũ là một điều hết sức sai lầm. Chính bây giờ nhiệm vụ của chúng ta là phải làm cho chế độ tập trung dân chủ được quán triệt trong nền kinh tế; bảo đảm cho một số doanh nghiệp kinh tế như đường sắt, bưu điện và các ngành vận tải khác có thể hoàn toàn nhất trí bắt nhịp với nhau khi hoạt động, đồng thời hiểu rõ chế độ tập trung theo đúng ý nghĩa dân chủ thật sự, thấy trước được khả năng (khả năng lần đầu tiên được tạo ra trong lịch sử) phát huy một cách tự do hoàn toàn không những các đặc điểm của địa phương, mà cả những sáng kiến của địa phương, tinh thần chủ động của địa phương và những đường lối, phương pháp, biện pháp để đạt tới mục đích chung nữa… Tính chất muôn màu muôn vẻ đó càng phong phú – cố nhiên nếu không nói là phát triển đến chỗ quá ư khác thường – thì chúng ta có thể bảo đảm là đạt được chế độ tập trung dân chủ và thực hiện kinh tế xã hội chủ nghĩa càng được chắc chắn, càng được nhanh chóng”.

Chủ nghĩa tập trung dân chủ bắt nguồn trực tiếp từ chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa, từ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về tư liệu sản xuất, về quản lý kinh tế và về phân phối sản phẩm lao động. Nó đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa vô chính phủ – con đẻ của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Nó cũng hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa tập trung quan liêu mà thực chất là hạn chế và phủ định quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động đối với sản xuất và phân phối.

Trong điều kiện của nước ta – một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, tiến lên xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa – càng phải đặc biệt coi trọng phát huy tính chủ động, sáng tạo và quyền làm chủ tập thể của các địa phương.

Chúng ta khác rất nhiều so với các nước xã hội chủ nghĩa đã có một trình độ phát triển cao về công nghiệp, bản chất của nền đại công nghiệp đòi hỏi một phương thức quản lý tập trung thống nhất ở trình độ cao. Ở nước ta, nền đại công nghiệp ấy mới đang trong quá trình xây dựng, khu vực đại sản xuất hiện mới chiếm một tỷ lệ nhỏ bé trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong khi ấy thì một quá trình cải biến sâu sắc từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn đang diễn ra trên địa bàn rộng lớn của cả nước. Quá trình này bao gồm hai mặt: một mặt là việc xây dựng và phát triển nền đại công nghiệp với quy mô ngày càng lớn; mặt khác là việc phấn đấu nhằm từng bước nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp và từng bước phân công lại lao động xã hội, từng bước đưa nền sản xuất nhỏ trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp tiến lên hiện đại hóa, từng bước phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ làm cơ sở vững chắc cho công nghiệp nặng phát triển, v.v… Quá trình này đặt ra nhiều vấn đề có tính chất toàn quốc, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề có tính chất địa phương. Nó đòi hỏi nhiều tỷ lệ cân đối trong phạm vi toàn quốc đồng thời cũng đòi hỏi nhiều tỷ lệ cân đối trong phạm vi từng địa phương. Nó được tiến hành theo những phương hướng và mẫu mực thống nhất toàn quốc, đồng thời cũng là kết quả của vô vàn cố gắng và sáng kiến có ý nghĩa địa phương và vì thế, không thể không mang rất nhiều sắc thái địa phương. Thực tế khách quan ấy đòi hỏi một phương thức quản lý thích hợp – một phương thức quản lý như đồng chí Lê Duẩn chỉ ra sau đây:

“Nền đại sản xuất cơ giới hóa chỉ có thể ra đời trên cơ sở kết hợp đúng đắn tập trung thống nhất của trung ương với chế độ làm chủ tập thể của các địa phương, kết hợp việc xây dựng những xí nghiệp lớn với việc cải tạo nền sản xuất nhỏ, phân công lại lao động ở các địa phương. Chúng ta không những phải biết phát huy thế mạnh của cả nước, mà còn phải biết phát huy thế mạnh của từng địa phương để dấy lên một cao trào phát triển sản xuất trên nhiều địa bàn khác nhau với những quy mô to nhỏ khác nhau. Không những phải biết sử dụng tập trung mọi ưu thế của chế độ xã hội chủ nghĩa để xây dựng các cơ sở kinh tế hiện đại có quy mô lớn, làm thành bộ xương sống của nền kinh tế quốc dân, mà còn phải biết tạo nên ở các địa phương những hình thức tổ chức kinh tế thích hợp để động viên tới mức cao nhất mọi khả năng tiềm tàng trong nhân dân tham gia xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất và tổ chức đời sống”.

Nếu không nhìn nhận thực tế khách quan của nước ta, không phân biệt cái gì tất yếu phải quản lý tập trung thống nhất cả nước, cái gì có thể và phải trao quyền cho địa phương quản lý, nếu mọi thứ đều tập trung lên trung ương để giải quyết thì như vậy là tự trói mình lại, hạn chế tính chủ động sáng tạo và quyền làm chủ tập thể của quần chúng, làm trở ngại cho sự phát triển của nền kinh tế đang đòi hỏi “bung ra” theo những khả năng muôn vẻ của nó. Phải thấy rằng trong điều kiện cụ thể của nền kinh tế nước ta đang chuyển mình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, chính là tính chủ động sáng tạo của các địa phương được phát huy đầy đủ và đúng hướng nhằm tạo ra sự cân đối cần thiết trong phạm vi từng địa phương, nhằm tiến hành phân công lại lao động xã hội trên cơ sở nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp, nhằm khai thác mọi khả năng tiềm tàng của địa phương. Tóm lại, chính là tính nhiều vẻ của các địa phương sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, đẩy nhanh sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp địa phương nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho việc mở mang công nghiệp nặng. Nếu không dám “tỏa” ra để phát triển kinh tế địa phương thì chẳng những kinh tế địa phương khô kiệt mà kinh tế trung ương cũng không thể lớn nhanh lên được.

Như trên đã nói, bên cạnh những vấn đề có tính chất địa phương, những tỉ lệ cân đối có tính chất địa phương, những ngành kinh tế và xí nghiệp chỉ có thể phát triển thuận lợi nếu đặt dưới sự quản lý của các địa phương, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước ta – như bất cứ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nào khác – vẫn đặt ra một loạt vấn đề có tính chất toàn quốc, vẫn đòi hỏi một loạt tỉ lệ cân đối trong phạm vi toàn quốc, vẫn bao gồm một loạt ngành kinh tế và xí nghiệp chỉ có thể phát triển thuận lợi nếu đặt dưới sự quản lý tập trung của trung ương. Tính tất yếu khách quan cũng như nội dung của sự quản lý tập trung của trung ương là ở đó.

Chúng ta gọi là “kinh tế trung ương”, tất cả những ngành và xí nghiệp đặt dưới sự quản lý trực tiếp của trung ương, còn “kinh tế địa phương” là những ngành và xí nghiệp đặt dưới sự quản lý trực tiếp của cấp tỉnh, thành phố. Kinh tế trung ương và kinh tế địa phương là những bộ phận hữu cơ của một thể kinh tế thống nhất, của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất. Giữa chúng, không có một ranh giới cố định. Đồng chí Lê Duẩn viết:

“Kinh tế của các địa phương càng phát triển thì nhiệm vụ quản lý của các địa phương càng nặng nề hơn mà nội dung quản lý tập trung của trung ương cũng càng mở rộng hơn. Trên đà phát triển kinh tế, nhiều vấn đề vốn có tính chất địa phương sẽ trở thành những vấn đề có tính chất toàn quốc, nhiều tỉ lệ cân đối và lĩnh vực sản xuất vốn có tính chất địa phương sẽ trở thành những tỉ lệ cân đối và lĩnh vực sản xuất có tính chất toàn quốc. Như vậy, kinh tế trung ương sẽ được tăng cường từng bước trên cơ sở phát huy sáng kiến và khả năng của các địa phương. Tuy nhiên, nội dung quản lý của địa phương vẫn không ngừng phong phú thêm lên đi đôi với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế: trong khi nó chuyển giao cho trung ương những tỉ lệ cân đối và những lĩnh vực sản xuất đã vượt ra khỏi phạm vi quản lý của địa phương thì mặt khác, nó lại tiếp nhận một loạt vấn đề, tỉ lệ cân đối và lĩnh vực sản xuất mới nảy ra từ trong đời sống kinh tế của địa phương. Cứ như thế, đời sống kinh tế không ngừng cung cấp cho sự quản lý tập trung của trung ương cũng như sự quản lý của các địa phương nước nội dung luôn luôn đổi mới, luôn luôn phát triển. Vì vậy, không sợ rằng tỏa ra cho các địa phương thì kinh tế trung ương sẽ giảm sút đi; mặt khác, cũng không sợ rằng tập trung cho trung ương thì kinh tế địa phương sẽ thu hẹp lại”.

“Không sợ rằng tỏa ra cho các địa phương thì kinh tế trung ương sẽ giảm sút đi; mặt khác, cũng không sợ rằng tập trung cho trung ương thì kinh tế địa phương sẽ thu hẹp lại”, đó chính là cách nhìn biện chứng, phản ánh đúng sự phát triển có tính quy luật của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nước ta. Cách nhìn đó khác xa biết bao nhiêu, một mặt với chủ nghĩa tập trung quan liêu và mặt khác với chủ nghĩa cục bộ địa phương! Cách nhìn của chủ nghĩa tập trung quan liêu là một cách nhìn hẹp hòi, thiển cận, không dựa trên quan điểm phát triển, không nhìn thấy tính năng động và yêu cầu muôn vẻ của nền kinh tế đang chuyển biến từ sản xuất nhân lên sản xuất lớn, chỉ muốn bo bo ôm lấy hết thảy, chỉ sợ tản ra cho các địa phương thì trung ương không còn gì mà nắm nữa. Cách nhìn đó cũng là một cách nhìn méo mó về chủ nghĩa xã hội, tưởng rằng đã là kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã là công hữu xã hội chủ nghĩa thì nhất cử nhất động của mọi người trong xã hội đều phải do một trung tâm duy nhất “bấm nút”. Đối lập với chủ nghĩa tập trung quan liêu là một cực đoan khác: chủ nghĩa cục bộ địa phương. Đó là cách nhìn của người sản xuất nhỏ mà tầm mắt không vượt quá phạm vi nhỏ hẹp của địa phương mình, của công xã mình, bo bo thu vén cho địa phương, chỉ sợ tập trung cho trung ương thì địa phương không còn gì mà nắm nữa. Cách nhìn đó cũng không đặt sự vật trên quan điểm phát triển, không thấy hướng đi lên của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là không ngừng chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, từ phân tán đến tập trung và vì thế, tập trung cho trung ương là xu thế tất yếu của sự tiến bộ, là xuất phát từ bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng phát triển kinh tế địa phương của Đảng ta hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa phân tán, chủ nghĩa vương quốc. Đồng chí Lê Duẩn chỉ rõ:

“Phân cấp quản lý kinh tế cho các địa phương, ra sức phát triển kinh tế địa phương, hoàn toàn không có nghĩa là biến mỗi địa phương thành một đơn vị kinh tế độc lập. Trung ương nắm vững sự lãnh đạo tập trung thống nhất đối với toàn bộ nền kinh tế thông qua kế hoạch toàn quốc bao gồm nước mặt cân đối chủ yếu và những chỉ tiêu chủ yếu, thông qua việc quy định các chính sách lớn và các tiêu chuẩn cán bộ về sản xuất cũng như về tiêu dùng, thông qua các việc phân phối vật tư và tiền vốn. Kinh tế trung ương bao gồm nước ngành kinh tế then chốt nhất, nó phát huy tác động như người lãnh đạo và đòn xeo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mỗi địa phương dựa trên đường lối, chính sách, phương hướng chung, kế hoạch chung của trung ương mà chủ động quản lý và xây dựng kinh tế của địa phương mình. Kinh tế địa phương vừa là một bộ phận cấu thành nền kinh tế của cả nước, vừa là một cơ cấu cân đối hợp lý trong phạm vi địa phương. Nó thể hiện phương hướng chung, kế hoạch chung và chính sách chung của trung ương đồng thời lại phản ánh những sáng kiến và tính sáng tạo độc đáo, phản ánh những đặc điểm và sắc thái riêng của từng địa phương”.

Không những kinh tế trung ương với kinh tế do có những mối liên hệ hữu cơ hết sức gắn bó, mà giữa kinh tế địa phương này với kinh tế địa phương khác cũng có những mối liên hệ hữu cơ hết sức gắn bó. Đồng chí Lê Duẩn viết: “Quan hệ giữa các địa phương với nhau là quan hệ hợp tác xã hội chủ nghĩa giữa các bộ phận của cùng một hệ thống phân công lao động xã hội bao trùm cả nước. Nội dung của mối quan hệ này bao gồm nhiều mặt: trao đổi và giúp đỡ nhau về kĩ thuật, về nguyên liệu, về tiêu thụ, hợp tác xây dựng những công trình kinh tế và văn hóa đem lại lợi ích chung, v.v…. Những quan hệ này phải được tiến hành dưới sự chỉ đạo của trung ương, không đối lập với kế hoạch của Nhà nước, mà là bổ sung, làm phong phú thêm kế hoạch Nhà nước”.

Nằm trong cả hệ thống phân công và hợp tác như vậy, mỗi địa phương đều có thể phát huy đến mức cao nhất năng lực sở trường của mình, sử dụng hợp lý nhất mọi nguồn tài nguyên và lao động của địa phương mình. Địa phương nào cũng làm như vậy trong khi trung ương tập trung sức lực vào việc xây dựng công nghiệp nặng và những ngành kinh tế then chốt khác, như vậy thì cả nước sẽ hình thành một cái thế đi lên sôi nổi nhất, mạnh mẽ nhất.

Tóm lại, chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân gắn liền với chế độ ấy và đòi hỏi phải quản lý nền kinh tế cả nước theo một kế hoạch thống nhất và do một trung tâm duy nhất điều khiển thì cũng chính chế độ công hữu ấy, cũng chính quyền làm chủ tập thể ấy đòi hỏi phải việc quản lý kinh tế như thế nào để phát huy được đầy đủ nhất quyền làm chủ tập thể, tính chủ động sáng tạo của các cấp dưới và của quần chúng rộng rãi. Nếu khu vực đại sản xuất cơ khí hóa đòi hỏi phải được quản lý như một hệ thống duy nhất trong phạm vi cả nước thì bên cạnh đó, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vẫn bao gồm một số lực lượng sản xuất, một số lĩnh vực sản xuất, một số xí nghiệp có tính chất phân tán, mang nặng sắc thái địa phương, mà nếu trung ương trực tiếp quản lý thì thường là chậm, thiếu nhạy bén, thậm chí trở ngại cho sản xuất. Với những đối tượng như trên thì phân cấp quản lý cho địa phương là có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Đương nhiên, sự quản lý tập trung thống nhất của trung ương đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bao giờ cũng là đặc trưng cơ bản nhất của một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nó thể hiện một cách tập trung nhất chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Không có sự quản lý tập trung đó thì không còn gì là chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa nữa. Chính vì thế mà chủ nghĩa xét lại hiện đại luôn luôn tìm cách làm yếu sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chúng không ngớt đả kích chủ nghĩa tập trung là chủ nghĩa quan liêu. Chúng muốn kéo nền kinh tế xã hội chủ nghĩa quay trở lại trạng thái vô chính phủ của chủ nghĩa tư bản.

Luôn luôn tăng cường chủ nghĩa tập trung, trong đời sống chính trị cũng như trong đời sống kinh tế, đó là nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội. Song, chủ nghĩa tập trung của chúng ta – như Lênin đã từng chỉ ra – hoàn toàn khác với chủ nghĩa tập trung quan liêu. Chủ nghĩa tập trung của chúng ta là chủ nghĩa tập trung dân chủ, nó không những không phản đối nà còn bao hàm việc phát huy đầy đủ nhất quyền làm chủ tập thể của quần chúng lao động nói chung và vai trò chủ động của các địa phương nói riêng. Trong bước đi ban đầu của nước ta, vai trò này càng có tầm quan trọng đặc biệt. Nó đáp ứng đúng yêu cầu phát triển của nền kinh tế đang từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn, đang từ phân tán tiến lên tập trung, và vì thế là một hình thái quan hệ sản xuất rất thích hợp với trình độ phát triển hiện tại của lực lượng sản xuất.

Sau khi tìm hiểu tính tất yếu của việc quản lý tập trung thống nhất của trung ương cũng như tính tất yếu của việc phân cấp quản lý kinh tế cho các địa phương, từ đó thấy rõ cơ sở lý luận của đường lối “xây dựng kinh tế trung ương đồng thời phát triển kinh tế địa phương”, chúng ta hãy tiến thêm một bước tìm hiểu ý nghĩa, nội dung của việc phát triển kinh tế địa phương – điều mà đồng chí Lê Duẩn đã dành cho một vai trò quan trọng trong bài viết của mình. Nêu nên ý nghĩa, nội dung của việc phát triển kinh tế địa phương cũng đồng thời có nghĩa là chứng minh cụ thể thêm tính tất yếu của công việc đó.

Ý nghĩa và nội dung của việc phát triển kinh tế địa phương bao gồm trong mấy điểm chủ yếu sau đây:

1- Phát triển kinh tế địa phương là phương thức tốt nhất để thực hiện cân đối từng bước trong phạm vi địa phương, trước nhất là cân đối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa sản xuất và tiêu dùng.

2- Phát triển kinh tế địa phương là phương thức tốt nhất, để từng bước phân công lại lao động xã hội trên cơ sở nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp.

3- Phát triển kinh tế địa phương là phương thức tốt nhất để kết hợp thành thị với nông thôn, mau chóng “thành thị hóa nông thôn”, “công nghiệp hóa nông nghiệp”.

4- Phát triển kinh tế địa phương là phương thức tốt nhất để tạo cơ sở vững chắc cho nền quốc phòng toàn dân, để bảo đảm hậu cần tại chỗ cho cuộc chiến tranh nhân dân chống Mĩ, cứu nước.

Chúng ta hãy lần lượt đi vào từng điểm.

Phát triển kinh tế địa phương để từng bước cân đối công nghiệp với nông nghiệp, sản xuất và tiêu dùng

Nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ, phân tán lên sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó – như đồng chí Lê Duẩn chỉ ra – tất yếu dặt ra những vấn đề có tính chất toàn quốc đồng thời với những vấn đề có tính chất địa phương, những tỉ lệ cân đối trong phạm vi toàn quốc đồng thời vời những tỉ lệ cân đối trong phạm vi từng địa phương. Trao cho địa phương trách nhiệm xử lí những vấn đề có tính chất địa phương, bảo đảm những tỉ lệ cân đối có tính chất địa phương, điều đó không những phù hợp với nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội là bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về mọi mặt trong đó có quản lý kinh tế, mà còn đáp ứng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đứng dưới giác độ thực tiễn mà xét, ta thấy kinh nghiệm quản lý kinh tế của nước ta cũng như của nhiều nước xã hội chủ nghĩa anh em đều đi đến kết luận cho rằng một hình thức phân cấp quản lý kinh tế thích hợp là có lợi cho sản xuất, có lợi cho chủ nghĩa xã hội.

Một nền kinh tế đang từ sản xuất nhỏ chuyển lên sản xuất lớn thì không thể cân đối tất cả các mặt ngay trong một lúc, mà tất yếu phải cân đối từng bước: bắt đầu từ một số mặt nào đó, tiến lên cân đối nhiều mặt hơn; bắt đầu cân đối trong những phạm vi nhỏ hẹp tiến lên cân đối trong phạm vi rộng hơn. Thực hiện cân đối từng bước trong những phạm vi nhỏ hẹp, không đâu sát hơn địa phương. Vì vậy, phát triển kinh tế địa phương là phương thức tốt nhất để thực hiện cân đối từng bước trong phạm vi địa phương.

Công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành sản xuất vật chất cơ bản nhất của xã hội. Sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân tùy thuộc trước hết ở sự phát triển cân đối của hai ngành đó.

Trước đây, dưới chế độ kinh tế tiểu nông, công nghiệp và nông nghiệp cũng vẫn phải phát triển cân đối với nhau mới tiến hành tái sản xuất một cách bình thường được. Tư liệu sản xuất của nông nghiệp lúc ấy là cái cày, cái cuốc, con dao, lưỡi hái…thì công nghiệp lúc ấy là những lò rèn thủ công. Mỗi một vùng nông thôn đều có những lò rèn thủ công, những lò này phân bố rải rác ở các làng, các chợ, các thị trấn, hoặc tập hợp thành những làng chuyên sản xuất cày, những làng chuyên sản xuất bừa, v.v… Về mặt công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, tình hình đại thể cũng như vậy. Sự cân đối trên đây giữa công nghiệp và nông nghiệp là sự cân đối trong điều kiện sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu. Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa tức là phải phá vỡ sự cân đối đó và thay thế bằng một sự cân đối mới – cân đối giữa công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại. Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình lịch sử, vì vậy, tạo ra sự cân đối mới cũng là cả một quá trình lịch sử, quá trình này không thể không bao gồm một số bước trung gian, một số hình thức trung gian. Cân đối giữa công nghiệp địa phương và nền nông nghiệp đã hợp tác hóa là một trong những bước trung gian đó, một trong những hình thức trung gian đó. Đồng chí Lê Duẩn chỉ ra như sau:

“Trong giai đoạn trước mắt, khi mà nông nghiệp bắt đầu tiến hành sự phân công lao động mới và công nghiệp trung ương còn non trẻ thì việc kết hợp công nghiệp với nông nghiệp trong phạm vi từng địa phương có tầm quan trọng đặc biệt”.

Như mọi người đều biết, nền nông nghiệp nước ta không còn là tiểu nông nữa mà đã trở thành một nền nông nghiệp hợp tác hóa. Thay thế vào nước hộ tiểu nông chỉ canh tác chưa đầy một héc ta mỗi hộ thì nay là những doanh nghiệp hợp tác có quy mô trên dưới 100 héc ta và trên dưới 200 lao động. Dựa vào ưu thế của lao động hợp tác, các doanh nghiệp này có khả năng thực hành phân công lao động trong nội bộ doanh nghiệp, phát triển ngành nghề, nâng cao năng suất lao động, cải tiến kĩ thuật và từng bước sử dụng kĩ thuật hiện đại. Đây chưa phải là nền móng nông nghiệp lớn, xây dựng hoàn toàn theo mẫu mực của nền công nghiệp hiện đại. Nền tảng của nó, về cơ bản, vẫn là kĩ thuật thủ công. Song, nó cũng không còn là nền nông nghiệp nhỏ cổ truyền nữa. Lao động hợp tác và sự phân công lao động tiến hành trên cơ sở đó đã đánh dấu một bước ngoặt căn bản. Với những đặc điểm như trên, nền nông nghiệp hợp tác hóa hiện nay của chúng ta có thể ví với giai đoạn công trường thủ công trong quá trình hình thành nền đại công nghiệp cơ khí. Cũng bằng lao động hợp tác và sự phân công lao động tiến hành trên cơ sở đó, công trường thủ công đã làm đảo lộn nền công nghiệp cổ truyền, mở đường cho kĩ thuật mới và nền đại công nghiệp dựa trên kĩ thuật ấy ra đời.

Một nền nông nghiệp với những sự đổi mới căn bản như thế đương nhiên không thể thỏa mãn với những công cụ cá nhân và những lò rèn thủ công cổ truyền được nữa. Nó cho phép sử dụng và đòi hỏi sử dụng ngày càng nhiều các loại công cụ có hiệu lực cao hơn, các loại công cụ tập thể: nông cụ cải tiến, xe cải tiến, máy bơm, máy tuốt lúa, máy nghiền thức ăn gia súc, máy xay sát, máy sơ chế nông sản, máy phát lực, v.v…, những tư liệu sản xuất này vượt xa khả năng chế tạo của các lò rèn thủ công. Mặt khác, nó cũng cho phép sử dụng và đòi hỏi ngày càng nhiều các sản phẩm của công nghiệp nặng: điện, than, xi-măng, phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, máy kéo, và máy móc nông nghiệp kèm theo… Ai cũng biết, nền công nghiệp nặng của chúng ta còn đang trong quá trình xây dựng, khả năng của nó hiện còn rất hạn chế, nhất là về mặt cung cấp máy kéo và máy móc nông nghiệp kèm theo.

Trong khi đó thì việc phát huy vai trò của tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp – gọi chung là công nghiệp địa phương – để chi viện cho nông nghiệp lại là một khả năng hiện thực. Chúng ta xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, điều này có nghĩa là về mặt công nghiệp chúng ta hầu như chưa có đại công nghiệp mà chủ yếu mới có thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp. Lực lượng công nghiệp sẵn có này tuy nhỏ bé, phân tán, kĩ thuật lạc hậu, nhưng cho đến nay, nó vẫn đáp ứng một phần rất quan trọng nhu cầu về sản xuất và đời sống của nhân dân ta nói chung, của nông dân ta nói riêng. Nếu biết phát huy tác dụng của nó, phát triển nó đúng hướng, đồng thời từng bước cải tạo nó về mặt kĩ thuật thì lực lượng công nghiệp này hoàn toàn có thể trở thành một đòn xeo quan trọng đối với nông nghiệp trong lúc đại công nghiệp còn non yếu.

Ai cũng biết xây dựng và phát triển loại công nghiệp này thì vốn không cần nhiều, nguồn nguyên liệu không đòi hỏi phải lớn, kĩ thuật không phức tạp, phát huy hiệu quả nhanh, khắp nơi trong nước đều làm được. Đem một nền công nghiệp tương đối “linh hoạt” như vậy kết hợp với một nền nông nghiệp đang phân công lại lao động, đang cải tiến kĩ thuật, và do đó đang đặt ra những yêu cầu rất nhiều vẻ về mặt tư liệu lao động, rõ ràng là một sự cân đối hợp lý. Dù cho trình độ kĩ thuật của nó tương đối thấp, nền công nghiệp này vẫn có khả năng đáp ứng được phần lớn yêu cầu hiện nay của nông nghiệp về tư liệu lao động. Sở dĩ như vậy là vì chính nông nghiệp cũng chưa đòi hỏi kĩ thuật phức tạp gì nhiều, chính nông nghiệp cũng mới phát triển tới “giai đoạn công trường thủ công” chứ chưa phải đã tới giai đoạn cơ khí hóa.

Sự tương ứng về mặt chất lượng (hay trình độ) như trên, chỉ cần công nghiệp địa phương được phát triển rộng rãi hơn, nhiều mặt hơn, là sẽ hình thành một thế cân đối nhất định giữa công nghiệp và nông nghiệp. Thế cân đối này, bản thân nó đã là một bước nhảy. Nó sẽ chuẩn bị cho một bước nhảy quan trọng hơn, trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp.

Phát triển công nghiệp địa phương để cân đối với nền nông nghiệp hợp tác hóa là một bước cân đối rất quan trọng, một nhiệm vụ “chiến lược” trong bước đi ban đầu. Nó đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp chuyển lên một giai đoạn phát triển mới. Nó đưa chủ nghĩa kĩ thuật trong nông nghiệp tiến lên một bước: thông qua công nghiệp địa phương mà trang bị phổ biến cho lao động nông nghiệp những công cụ cải tiến và máy móc tương đối đơn giản, thay thế cho kĩ thuật cổ truyền. Làm được như trên cũng tức là bước đầu tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật cho chế độ hợp tác xã xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp.

Nếu chỉ trông chờ một chiều ở công nghiệp nặng, hiện đại, để trang bị kĩ thuật mới cho nông nghiệp thì chắc chắn không tránh khỏi một thời kì đình trệ trong nông nghiệp. Đó là thời kì mà bản thân công nghiệp nặng còn đang được xây dựng (thời kì này có thể kéo dài hàng chục năm), nó chưa cung cấp được gì nhiều cho nông nghiệp. Trong thời gian ấy, kĩ thuật trong nông nghiệp không được đổi mới (hoặc đổi mới rất ít), do đó năng suất của lao động nông nghiệp khó lòng nâng lên được, bản thân chế độ hợp tác cũng khó đứng vững và phát triển vì không tạo được cái cơ sở vật chất kĩ thuật tối thiểu cần thiết của nó, thông qua công nghiệp địa phương mà bước đầu đưa kĩ thuật mới vào nông nghiệp thì lấp được “chỗ trống” đó, đồng thời thực hiện được một bước nhảy trên con đường phát triển “tuần tự” của cả nông nghiệp lẫn công nghiệp. Nhờ có bước nhảy này cả nông nghiệp lẫn công nghiệp sẽ chuyển lên giai đoạn cơ khí hóa mau hơn, thuận lợi hơn. Cũng nhờ có bước nhảy này, sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp đều phát triển mạnh, tại điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện bước nhảy vọt lớn về kĩ thuật.

Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta khác các nước đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa chính là ở chỗ: chúng ta không có sẵn một nền đại công nghiệp để cơ khí hóa ngay nền nông nghiệp, làm cho nông nghiệp và công nghiệp đều phát triển trên cơ sở kĩ thuật hiện đại, đồng thời tạo cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở nông thôn cái cơ sở vật chất kĩ thuật thật sự của nó ngay sau khi hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp. Tuy nhiên, chúng ta không vì thế mà ngồi chờ đến khi nào xây dựng xong nền đại công nghiệp mới tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, bởi vì chờ như thế có nghĩa là xa rời con đường xã hội chủ nghĩa, bỏ trống trận địa cho chủ nghĩa tư bản. Trong tình hình đó, để cân đối công nghiệp với nông nghiệp, tất yếu phải đưa nông nghiệp và công nghiệp tiến lên từng bước, tất yếu phải cân đối từng bước công nghiệp với nông nghiệp, cụ thể là: trước mắt, thông qua công nghiệp địa phương mà bước đầu đưa kĩ thuật mới vào nông nghiệp, đồng thời thông qua việc phấn đấu đạt “ba mục tiêu” trong nông nghiệp là bước đầu tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển. Cũng trong tình hình đó, để đáp ứng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất nhất định phải thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tất yếu phải xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn từ trình độ thấp lên trình độ cao, kết hợp với việc tiến hành chủ nghĩa kĩ thuật từng bước; trước mắt, thông qua công nghiệp địa phương mà bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho các doanh nghiệp hợp tác trong nông nghiệp, các doanh nghiệp nay cũng mới đạt tới quy mô trên dưới 100 héc ta và trên dưới 200 lao động. Như vậy, thì không có tình trạng quan hệ sản xuất thì tiên tiến còn lực lượng sản xuất thì lạc hậu, cũng không có tình trạng công nghiệp thì tiên tiến còn nông nghiệp thì lạc hậu. Tình trạng này rất có thể xảy ra nếu chúng ta chi một chiều chăm lo xây dựng công nghiệp hiện đại, không xuất phát từ đặc điểm cơ bản của nước ta, và do đó, không biét đưa công nghiệp và nông nghiệp tiến lên từng bước cân đối với nhau, không biết từng bước tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất đi đôi với từng bước tiến hành cách mạng kĩ thuật nhằm đưa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn phát triển tương ứng với nhau từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao. Xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu mà muốn một bước lên ngay công nghiệp hiện đại, một bước hiện đại hóa xong nền nông nghiệp thì chỉ là ảo tưởng; trái lại, nếu chờ xây dựng xong nền công nghiệp hiện đại mới hợp tác hóa và hiện đại hóa nông nghiệp thì chẳng có nghĩa gì khác hơn là xa vời chủ nghĩa xã hội. Như vậy thì phát triển công nghiệp địa phương, thông qua công nghiệp địa phương mà bước đầu đưa kĩ thuật mới vào nông nghiệp, bước đầu tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho các chế độ kinh tế mới trong nông nghiệp, bước đầu phát triển sản xuất nông nghiệp là phương hướng duy nhất đúng đắn. Nó thể hiện tinh thần cách mạng tiến công đầy tính sáng tạo của Đảng ta, đồng thời phản ánh tính tất yếu của sự phát triển kinh tế trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhấn mạnh vai trò của công nghiệp địa phương không phải chỉ vì ý nghĩa quan trọng của nó trong bước đi ban đầu mà còn vì tác dụng lâu dài của nó nữa. Trong tương lai, khi công nghiệp trung ương đã lớn mạnh và thật sự đóng vai trò chủ đạo đối với nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thì cũng không có nghĩa là vai trò lịch sử của công nghiệp địa phương sẽ chấm dứt. Việc sản xuất một số tư liệu sản xuất lúc đó có thể trao lại cho công nghiệp trung ương để sản xuất hàng loạt bằng kĩ thuật hiện đại, nhưng việc sửa chữa các loại công cụ, máy móc phục vụ cho nông nghiệp và cho kinh tế địa phương, cuộc chế biến nhiều phẩm nông nghiệp, do địa bàn phân tán và tính chất cấp thời của nó, vẫn là những nhiệm vụ rất thích hợp với công nghiệp địa phương. Công nghiệp địa phương cũng rất thích hợp trong việc khai thác những nguồn tài nguyên thiên nhiên không có ý nghĩa toàn quốc trong việc sản xuất hàng tiêu dùng mà phần lớn là có thể sản xuất và tiêu dùng tại chỗ. Như vậy, công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương vẫn phải phân công và phối hợp với nhau để cân đối nông nghiệp, làm đòn xeo cho nông nghiệp và cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

Đi đôi với khả năng trang bị kĩ thuật của công nghiệp trung ương được tăng cường thì đương nhiên, công nghiệp địa phương cũng được hiện đại hóa từng bước, sự chênh lệch về trình độ kĩ thuật giữa công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương sẽ dần dần thu hẹp lại. Kết quả là: bằng việc phát triển công nghiệp địa phương đi đôi với xây dựng công nghiệp trung ương – nội dung quan trọng của đường lối phát triển kinh tế địa phương đi đôi với xây dựng kinh tế trung ương, chẳng những chúng ta thực hiện được một thế cân đối tích cực giữa công nghiệp và nông nghiệp trong bước đi ban đầu, tạo được điều kiện cho trung ương tập trung sức lực để xây dựng công nghiệp hiện đại, mà còn tận dụng được mọi lực lượng công nghiệp sẵn có để triển khai công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên địa bàn cả nước, thực hiện được một sự phân bố công nghiệp hợp lý và đồng đều khắp cả nước, làm cho công nghiệp và nông nghiệp kết hợp với nhau mật thiết hơn, thành thị và nông thôn kết hợp với nhau mật thiết hơn, do đó mà thúc đẩy nền kinh tế cả nước tiến nhanh lên hiện đại hóa.

Chúng ta nhấn mạnh tính tất yếu phải phát triển công nghiệp địa phương để cân đối công nghiệp với nông nghiệp hoàn toàn không có nghĩa là coi nhẹ vai trò của đại công nghiệp (công nghiệp trung ương). Trái lại, chính vì muốn cho trung ương có thể tập trung lực lượng vào việc xây dựng đại công nghiệp cho nên trước mắt, phải ra sức phát huy vai trò của công nghiệp địa phương để chi viện cho nông nghiệp. Đại công nghiệp càng lớn mạnh thì tác dụng của nó đối với nông nghiệp (và toàn bộ nền kinh tế quốc dân) cũng càng lớn, sự cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp sẽ dần dần chuyển lên một giai đoạn mới. Đại công nghiệp cơ khí, với ưu thế về năng suất lao động do nó tạo ra, là một lực lượng cách mạng vô cùng mạnh mẽ; một khi đã xuất hiện, nó tất yếu phải làm đảo lộn triệt để cơ sở kĩ thuật của nông nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tất yếu phải đem máy móc thay thế cho công cụ thủ công. Về phía nông nghiệp, nó cũng không thể dẫm chân lâu ở “giai đoạn công trường thủ công”. Chính giai đoạn này đã mở ra con đường rộng thênh thang cho lực lượng sản xuất phát triển, và sự phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu phải dẫn đến giai đoạn cơ khí hóa. Bản thân quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, trên con đường phát triển của nó, cũng đòi hỏi như vậy. Kĩ thuật cải tiến dù có tác dụng tích cực như thế nào trong việc bước đầu nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp, bước đầu củng cố hợp tác xã, vẫn chưa phải là cơ sở vật chất kĩ thuật thật sự của chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Cơ sở vật chất kĩ thuật ấy chỉ có thể do nền đại công nghiệp cơ khí sáng tạo ra.

Chẳng phải đợi đến khi xây dựng xong, mà ngay trước mắt, vai trò của đại công nghiệp cũng đã rất lớn. Nếu không có sự chi viện về xi-măng, sắt thép, máy bơm, điện, v.v… thì không thể xây dựng được hệ thống thủy lợi như ta thấy ngày nay. Vậy mà, hệ thống thủy lợi này lại chính là cơ sở vật chất kĩ thuật đầu tiên của nền nông nghiệp hợp tác hóa ở nước ta. Nó là đứa con chung của nền nông nghiệp hợp tác hóa và nền đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Với việc cung cấp hàng chục vạn tấn phân bón hóa học, hàng chục vạn tấn vôi, hàng vạn tấn thuốc trừ sâu, đại công nghiệp cũng đã bước đầu phát huy vai trò hóa học hóa nông nghiệp của nó, góp phần không nhỏ vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp. Cũng không nên quên rằng, vai trò đòn xeo của đại công nghiệp đối với nền nông nghiệp hợp tác hóa còn được thực hiện một cách gián tiếp, thông qua việc trang bị kĩ thuật cho công nghiệp địa phương, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải, v.v…

Như vậy, cân đối công nghiệp và nông nghiệp luôn luôn là một sự cân đối hai mặt: cân đối công nghiệp trung ương với nông nghiệp, và cân đối công nghiệp địa phương với nông nghiệp. Mỗi mặt có tính tất yếu của nó, mỗi mặt có tác dụng và vị trí của nó. Cân đối chức năng với nông nghiệp cũng là một quá trình phát triển liên tục, đi lên liên tục, trong đó vai trò của công nghiệp trung ương ngày càng lớn, nhưng vai trò của công nghiệp địa phương cũng rất quan trọng, nhất là trong bước đi ban đầu. Đồng chí Lê Duẩn viết:

“Để kết hợp chặt chẽ và cân đối hợp lý với một nền nông nghiệp nhiều vẻ đang trong quá trình chuyển biến sâu sắc như vậy, nền công nghiệp nước ta phải bao gồm hai bộ phận hợp thành: công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương; sự kết hợp cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp không những phải được đặt ra trong phạm vi cả nước, mà còn phải được đặt ra trong phạm vi từng địa phương. Nông nghiệp phải cung cấp lương thực, thực phẩm, lao động, nguyên liệu và thị trường cho công nghiệp địa phương và công nghiệp trung ương. Tư liệu sản xuất của nhân và tư liệu tiêu dùng của nông thôn không những do công nghiệp địa phương mà còn do công nghiệp trung ương cung cấp. Hai mối quan hệ đó (quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp địa phương và quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp trung ương) thường xuyên biến đổi tùy theo trình độ kĩ thuật và quy mô sản xuất của mỗi ngành trong từng giai đoạn. Trong giai đoạn trước mắt, khi mà nông nghiệp bắt đầu tiến hành sự phân công lao động mới và công nghiệp trung ương còn non trẻ thì việc kết hợp nông nghiệp với công nghiệp trong phạm vi từng địa phương có tầm quan trọng đặc biệt. Vì vậy, muốn xây dựng sự cân đối tốt nhất giữa công nghiệp và nông nghiệp, phải phân cấp quản lý kinh tế cho các địa phương, tăng cường sự giúp đỡ của trung ương, mau chóng tạo ra kinh tế địa phương vững mạnh song song với việc xây dựng các ngành kinh tế trung ương”.

Thực hiện cân đối từng bước trong phạm vi địa phương thì trước tiên phải lo cân đối hai ngành sản xuất cơ bản nhất là công nghiệp và nông nghiệp. Song, như thế chưa đủ. Sản xuất bao giờ cũng là để tiêu dùng. Vì vậy, sự cân đối giữa các lĩnh vực sản xuất phải gắn liền với sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong việc cân đối sản xuất với tiêu dùng, địa phương có vai trò rất lớn. Đồng chí Lê Duẩn chỉ ra như sau:

“Từ một nền kinh tế lạc hậu và một đời sống nghèo nàn tiến lên, sự tiêu dùng của nước ta và nhân dân ta diễn biến ngày càng phức tạp, trung ương chỉ có thể và phải quản lý những mặt tiêu dùng cơ bản có tính chất toàn quốc, còn các địa phương có nhiệm vụ phải thỏa mãn kịp thời và đầy đủ những mặt tiêu dùng có ý nghĩa thứ yếu. Phối hợp chặt chẽ và phân cấp rành mạch giữa trung ương và địa phương là phương pháp tốt nhất để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân không những phù hợp với trình độ phát triển sản xuất chung của cả nước, mà còn phù hợp với khả năng và đặc điểm cụ thể của từng địa phương. Do đó, sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng không những phải đặt ra và giải quyết trong phạm vi cả nước mà còn phải đặt ra và giải quyết trong phạm vi từng địa phương. Hai loại cân đối đó đều có vai trò quan trọng của nó, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Một khi những cân đối lớn giữa sản xuất và tiêu dùng đã được trung ương giải quyết thì các địa phương có khả năng giải quyết tốt hơn những cân đối khác giữa sản xuất và tiêu dùng phát sinh ra trong từng địa phương. Ngược lại, một khi những cân đối cục bộ của từng địa phương đã được giải quyết thì trung ương có điều kiện giải quyết tốt hơn những cân đối lớn và có ý nghĩa toàn cục”.

Đặt vấn đề như trên, đồng chí Lê Duẩn xuất phát từ đặc điểm của nước ta trong bước đi ban đầu, về mặt tiêu dùng cũng như về mặt sản xuất. “Từ một nền kinh tế lạc hậu và một đời sống nghèo nàn tiến lên”, mức sống của nhân dân ta chưa có gì là dồi dào cả. Song, đối tượng tiêu dùng và phương thức tiêu dùng thì lại rất nhiều vẻ, giữa như nền sản xuất nhỏ, phân tán, đã sản xuất ra nhất đối tượng tiêu dùng ấy và những phương thức tiêu dùng ấy. Vùng này ăn gạo còn vùng kia thì ăn thêm ngô, khoai, sắn, đậu,… Vùng này ăn tương, còn vùng kia thì ăn mắm tép, mắm cáy, mắm cua, mắm cá… Vùng này làm nhà bằng đất, lợp cói; vùng kia trát vách, lợp rạ; có vùng lại làm bằng đá ong, lợp lá; lại có vùng làm bằng gỗ, lợp nứa… người ta tiêu dùng cái gì, điều đó tùy thuộc chủ yếu ở việc ngay tại địa phương có thể sản xuất ra cái gì. Phần lớn lượng vật phẩm tiêu dùng này lại được gia công, chế biến tại chỗ do chính tay người tiêu dùng, hoặc do thực hiện thủ công tiến hành. Tóm lại, sản xuất có tính chất địa phương và tiêu dùng cũng thực hiện ngay tại địa phương. Tình hình này khác xa những nước mà công nghiệp và giao thông vận tải đã phát triển; ở đây, vật phẩm tiêu dùng phần lớn đã qua tay công nghiệp chế biến và sản xuất hàng loạt, giao lưu hàng hóa từ địa phương này qua địa phương kia được tiến hành rộng rãi.

Từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình trong đó sản xuất và tiêu dùng đều diễn biến phức tạp, nhiều vẻ. Sản xuất phát triển làm cho tiêu dùng cũng phát triển theo. Sản xuất thay đổi làm cho tiêu dùng cũng thay đổi theo. Ngược lại, những nhu cầu tiêu dùng mới luôn luôn hướng sản xuất vào những mục tiêu mới, những chân trời mới. Những sự biến động này trong sản xuất và tiêu dùng lại không diễn ra trên quy mô toàn quốc, mà chủ yếu trong phạm vi từng địa phương, chừng nào nông nghiệp, thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp vẫn còn là nguồn cung cấp phần lớn thời kì tiêu dùng cho nhân dân.

Với những đặc điểm của sản xuất và tiêu dùng như trên thì cân đối từng bước trong phạm vi từng địa phương là tất yếu và có lợi. Cân đối như thế nào để mỗi nhà đều có chum tương hay hũ mắm – tùy theo truyền thống sản xuất và tiêu dùng của địa phương – có vật liệu làm nhà, có chén bát, chum vại; phụ nữ có nón, guốc; học sinh có giấy bút, thiếu gạo thì có khoai sắn, thiếu gỗ thì có tre xoan, v.v… Chỉ có địa phương mới nắm được hết, tính được hết khả năng tiềm tàng của địa phương cũng như mọi nhu cầu căn bản nhất của địa phương để quyết định kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu dùng hợp lý nhất. Nếu tập trung tất cả lên trung ương thì trung ương không ôm xuể, không sát, mà địa phương thì lại bị bó buộc. Nói cho đúng thì trong bất cứ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nào, ở bất cứ trình độ phát triển nào cũng vậy, bao giờ cũng có những khả năng và những nhu cầu có ý nghĩa cục bộ mà địa phương là người sát nhất và do đó, địa phương phải là người chịu trách nhiệm chính để xử lý. Đặc điểm của nước ta chỉ là ở chỗ: những vấn đề có ý nghĩa cục bộ này đang còn là một nét chủ yếu trong giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế và vì thế, tất yếu phải coi mỗi địa phương là một “địa bàn chiến lược” để cân đối sản xuất với tiêu dùng.

Tương lai đây, khi công nghiệp hiện đại đã đủ sức nắm lấy việc chế biến phần lớn nông sản và sản xuất ra phần lớn tư liệu tiêu dùng khác thì không phải kinh tế địa phương sẽ không còn lý do tồn tại nữa. Vị trí của nó sẽ thấp xuống tương đối vì vị trí kinh tế trung ương cao lên nhiều. Nhưng, vì tư liệu tiêu dùng phần lớn là được sản xuất và tiêu dùng ngay tại địa phương cho nên việc cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng ngay tại địa phương vẫn là tất yếu và có lợi. Trong trường hợp này, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, ngay khi đã được hiện đại hóa, vẫn mang hình thái công nghiệp địa phương là chủ yếu.

Đương nhiên, những mặt cân đối cơ bản giữa sản xuất và tiêu dùng trong phạm vi cả nước bao giờ cũng là đối tượng quản lý của trung ương. Có như thế mới đảm bảo được tính kế hoạch, tính cân đối và tính thống nhất của nền kinh tế xây dựng trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Phân cấp quản lý cho địa phương không phải là chia sẻ sự quản lý tập trung thống nhất của trung ương, làm yếu sự quản lý đó mà là ngược lại. Một khi những mặt cân đối cục bộ, thứ yếu giữa sản xuất và tiêu dùng đã được các địa phương bảo đảm thì trung ương có thể tập trung lo những mặt cân đối cơ bản, những nhu cầu cơ bản, đặc biệt là những nhu cầu về cách mạng kĩ thuật. Kinh tế trung ương, vì vậy, sẽ lớn lên mau chóng. Về phía kinh tế địa phương cũng cần phải nói như thế. Đồng chí Lê Duẩn viết:

“Trong phạm vi từng địa phương, nếu thực hiện được sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng thì kinh tế địa phương sẽ phát triển tốt hơn, đời sống địa phương sẽ được cải thiện nhiều hơn, mà khả năng đóng góp cho trung ương cũng sẽ phong phú hơn. Do mỗi địa phương đều có nghĩa vụ và điều kiện khai thác đến mức cao nhất mọi khả năng tiềm tàng của mình, cho nên sẽ xuất hiện nhiều sắc thái khác nhau về mặt sản xuất cũng như về mặt tiêu dùng, làm cho đời sống nhân dân ngày càng phong phú. Đương nhiên, những tiêu chuẩn tiêu dùng cơ bản phải được thống nhất trong phạm vi cả nước, vì đó là nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, là yêu cầu bắt buộc của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa”.

Qua đó, ta thấy phác họa nên một bức tranh sinh động về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang và sẽ xây dựng. Trong nền kinh tế đó, không những kinh tế trung ương lớn lên mau chóng nhằm vào những ngành then chốt, những mặt cân đối cơ bản, mà “mỗi địa phương đều có nghĩa vụ và điều kiện khai thác đến mức cao nhất mọi khả năng tiềm tàng của mình”. Đó là nền kinh tế được tổ chức không theo chủ nghĩa tập trung quan liêu mà theo chủ nghĩa tập trung dân chủ. Nó thể hiện đầy đủ nhất quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đó cũng là nền kinh tế được tổ chức phù hợp nhất với thực tế khách quan của nước ta đang từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đang từ phân tán tiến lên tập trung, đang từ què quặt tiến lên cân đối. Một nền kinh tế như thế là một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý nhất, có tính năng động mạnh nhất, và mở ra con đường rộng rãi nhất cho lực lượng sản xuất phát triển.

Phát triển kinh tế địa phương để từng bước phân công lại lao động xã hội trên cơ sở nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp

Công nghiệp, bản thân nó là một hệ thống phân công lao động xã hội tốt phát triển và ngày càng phát triển tinh vi, phức tạp hơn lên. Nó chỉ có thể là sản phẩm của một sự phân công lao động cũng rất phát triển trong phạm vi toàn xã hội.

Người ta không thể xây dựng được công nghiệp nếu không có dồi dào lương thực, thực phẩm (cá, thịt, rau, quả,…) cung cấp cho công nhân, nếu không có dồi dào nông sản, lâm sản, hải sản làm nguyên liệu cho công nghiệp, nếu không mở mang đường sá và phát triển các phương tiện vận tải, v.v… Những thứ này chỉ có thể là sản phẩm của phân công lao động xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định. Phân công lao động xã hội, đến lượt nó, lại là sản phẩm của năng suất lao động nông nghiệp đã phát triển đến một trình độ nhất định – đến trình độ cho phép có được tương đối dồi dào sản phẩm thặng dư nông nghiệp. Với năng suất như thế thì xã hội không cần phải dành toàn bộ mà chỉ dành một bộ phận dân cư của mình vào sản xuất nông nghiệp cũng đủ bảo đảm nuôi sống được cả xã hội; một bộ phận dân cư còn lại thì phân công vào các công việc khác: công nghiệp, kiến trúc, giao thông vận tải, lâm nghiệp, đánh cá, v.v… Năng suất của lao động nông nghiệp càng cao thì bộ phận dân cư làm nông nghiệp càng nhỏ, bộ phận dân cư có thể phân công vào công nghiệp và các công việc khác, do đó, càng lớn, phân công lao động xã hội càng phát triển. Và, như Mác và Ăng-ghen đã chỉ ra rất đúng, “người ta nhận thấy một cách rõ ràng nhất trình độ phát triển mà lực lượng sản xuất của một dân tộc đã đạt được qua trình độ phát triển mà sự phân công lao động đã đạt được”.

Chúng ta xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, tiến lên xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc trưng của nền kinh tế ấy là: năng suất lao động của nó rất thấp, đến mức xã hội phải dành tuyệt đại bộ phận lao động và hầu hết ruộng đất của mình vào việc sản xuất ra thứ tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để sống là lương thực. Nếu không xóa bỏ được tình trạng độc canh cây lương thực này – trạng thái cực kì thấp kém của phân công lao động xã hội mới, phát triển hơn, nói riêng trong nông nghiệp và nói chung trong cả xã hội, thì dứt khoát không thể mở mang được công nghiệp, dứt khoát không thể xây dựng được nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, không thể xóa bỏ được tình trạng độc canh chỉ bằng cách lên án nó là lạc hậu hoặc bằng cách tung ra những lời hô hào đa canh hóa. Độc canh hay đa canh đâu phải là một vấn đề tâm lý! Chúng là sản phẩm của những trạng thái kinh tế khách quan: những trình độ nhất định của năng suất lao động nông nghiệp. Chừng nào xã hội còn phải dồn tất cả lao động và ruộng đất của mình vào việc trồng lương thực mới bảo đảm đủ no (đủ sống) thì chừng ấy, độc canh vẫn còn là một tất yếu hợp lý. Chỉ khi nào năng suất của lao động công nghiệp đã được nâng cao khiến cho việc trồng lương thực đủ nuôi sống cả xã hội không đòi hỏi toàn bộ lao động và toàn bộ ruộng đất nữa thì khi ấy, bộ phận lao động và ruộng đất dôi ra kia mới trở thành cơ sở hiện thực của đa canh hóa. Người ta cũng có thể bằng con đường khai hoang mở rộng diện tích mà đạt tới đa canh hóa. Nhưng, những người lao động làm nhiệm vụ khai hoang và đa canh hóa này không thể không sống bằng lương thực. Vậy mà, số lương thực cung cấp cho họ thì lại bị giới hạn trong khuôn khổ số lương thực thặng dư mà những người trồng lương thực có khả năng cung cấp cho xã hội. Chung quy lại, cuộc đa canh hóa, bằng bất cứ con đường nào, đều phụ thuộc vào năng suất lao động của những người trồng lương thực. Vì vậy, muốn phá thế độc canh cây lương thực, muốn tạo ra một thế phân công lao động xã hội mới thì phải tác động trước hết vào năng suất của những người lao động trồng lương thực. Phấn đấu đạt 3 mục tiêu trong nông nghiệp, đó là cách tác động tích cực nhất vào năng suất của lao động nông nghiệp nói chung và năng suất của trồng lương thực nói riêng; số lao động dôi ra sẽ được chuyển sang các ngành nghề khác, làm cho các ngành nghề này phát triển và ngày càng đi sâu vào chuyên môn hóa. Như vậy, thế phân công lao động cũ dần dần bị xóa bỏ, thế phân công lao động xã hội mới dần dần hình thành. Đồng chí Lê Duẩn viết:

“Ở nước ta, lao động nông nghiệp với năng suất rất thấp, đang chiếm 3/4 tổng số lao động xã hội, vì vậy, nói đến phân công lao động xã hội mới trước hết và chủ yếu là nói đến phân công lại lao động nông nghiệp. Chuyển một phần lao động trồng lương thực sang trồng cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi, mở mang nghề cá, khai thác nghề rừng, chuyển một phần lao động nông nghiệp sang công nghiệp, giao thông vận tải, chuyển lao động giản đơn thành lao động lành nghề, chuyển lao động năng suất thấp lên năng suất cao – đó là những yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng kinh tế, là mục đích chủ yếu của việc quản lý lao động trong giai đoạn hiện nay. Những bước phân công lao động xã hội mới đó nếu được tiến hành kịp thời thì sẽ thúc đẩy nhanh quá trình cách mạng kĩ thuật và sự ra đời của nền sản xuất lớn”.

Quá trình hình thành của sự phân công lao động xã hội mới ở nước ta không thể không diễn ra trong một thời kì lịch sử kéo dài hàng chục năm. Nó tương ứng với quá trình hình thành của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, không nên hiểu mọi lực lượng lao động được giải phóng ra khỏi lĩnh vực sản xuất nông nghiệp (hay nói đúng hơn: được giải phóng ra khỏi lĩnh vực sản xuất lương thực) đều được thu hút ngay vào nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Sản xuất lớn, muốn ra đời, đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn. Ngay cả với trình độ kĩ thuật chưa lấy gì làm cao của công nghiệp nước ta (ở đây, chỉ kể công nghiệp trung ương), chúng ta đã phải đầu tư (cả vốn cố định và vốn lưu động) trên 50.000 đồng cho mỗi một đầu người công nhân, viên chức rồi. Nói cách khác, muốn kiếm được công ăn việc làm trong ngành công nghiệp cho một người lao động thì Nhà nước phải đầu tư ra trên 50.000 đồng. Số vốn này chỉ có thể là lao động thặng dư tích lũy lại. Ai cũng biết, khả năng tích lũy của ta hiện còn rất thấp: năm đạt mức tích lũy cao nhất (năm 1964) thì bình quân mỗi người lao động trong khu vực sản xuất vật chất cũng mới đóng góp được khoảng 150 đồng. Như vậy có nghĩa là: phải cóp nhặt lao động thặng dư của 330 người lao động sản xuất mới tạo ra được cơ hội làm việc trong công nghiệp hiện đại cho một người lao động! Nếu đem toàn bộ số vốn tích lũy của ta sử dụng vào công nghiệp (giả định là không thực tế, vì yêu cầu phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân không bao giờ cho phép tập trung toàn bộ số vốn tích tích lũy của một nước vào xây dựng công nghiệp) thì cũng chưa tạo ra đủ chỗ làm cho 1/10 số thanh niên hàng năm đến tuổi lao động, còn lấy đâu ra chỗ để thu hút những lao động vừa được giải phóng ra khỏi nông nghiệp! Tình hình trên đây nói lên khả năng thu hút lao động của công nghiệp nước ta hiện nay còn rất hạn chế. Trước mắt, công nghiệp (hay sản xuất nói chung) chưa phải là nơi thu hút phần lớn lao động được giải phóng ra khỏi nông nghiệp.

Vậy hướng chủ yếu là ở đâu? Đồng chí Lê Duẩn viết:

“Trong giai đoạn trước mắt của nền kinh tế nước ta, sự phân công lao động mới phải tiến hành chủ yếu từ các cơ sở sản xuất, từ các địa phương. Đương nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế trung ương sẽ thu hút một số lao động nông thôn, tạo cho lao động một chất lượng hoàn toàn mới, thay đổi cơ cấu lao động theo hướng tiến lên của nền sản xuất lớn. Tuy vậy, nếu chỉ dựa trên sự phát triển của các ngành kinh tế trung ương thì quá trình phân công lao động mới sẽ tiến triển chậm chạp, bởi vì hàng năm, các ngành kinh tế trung ương chỉ có thể thu hút một số lao động tương đối nhỏ, chỉ tạo nên năng suất cao cho một bộ phận lao động xã hội, còn phần lớn lao động đọng lại ở các địa phương đang bức thiết đòi hỏi một sự phân bố và sử dụng hợp lý. Làm thế nào để tăng được năng suất lao động và giải phóng được một bộ phận lao động nông nghiệp ra khỏi những công việc cũ? Làm thế nào để sử dụng được số lao động dôi ra đó một cách có lợi nhất? Đó là những hiện tượng xảy ra hàng năm mà chỉ có từng hợp tác xã và từng địa phương mới nắm được cụ thể và xử lý kịp thời”.

Nếu đúng là thật “trong giai đoạn trước mắt của nền kinh tế nước ta, sự phân công lao động mới phải tiến hành chủ yếu từ các cơ sở sản xuất, từ các địa phương” thì kết luận lô-gích sẽ là: phải ra sức phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở, của địa phương, coi đó là phương thức thích hợp nhất để thực hiện sự phân công lao động mới đó. Đồng chí Lê Duẩn viết:

“…Quy luật phát triển của sự phân công lao động mới ở nước ta đang đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, đòi hỏi chúng ta không những phải ra sức phát triển các ngành kinh tế trung ương, mà còn phải biết xây dựng hợp lý kinh tế địa phương. Chỉ có trên cơ sở phân công lại lao động đi đôi với xây dựng kinh tế địa phương mới có thể phân công lại lao động của toàn xã hội; ngược lại, sự phát triển kinh tế chung của cả nước và của các ngành kinh tế trung ương lại tác động tích cực đến tình hình kinh tế và lao động của các địa phương, thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động mới ở các địa phương”.

Tiến hành phân công lại lao động xã hội ở nước ta – như đồng chí Lê Duẩn chỉ ra – bao gồm hai mặt (hay hai bước): một mặt là làm thế nào để tăng được năng suất lao động và giải phóng được một bộ phận lao động nông nghiệp ra khỏi những công việc cũ”, còn một mặt là “làm thế nào để sử dụng được số lao động dôi ra đó một cách có lợi nhất”. Trên cả hai mặt này, địa phương đều có vai trò quyết định to lớn. Trước mắt, muốn tăng được năng suất của lao động nông nghiệp để từ đó, giải phóng một bộ phận lao động nông nghiệp, phải thực hiện nhiều biện pháp: thủy lợi, phân bón, giải phóng đôi vai, cải tiến công cụ, sử dụng máy móc, v.v… Những biện pháp này, tự bản thân nông nghiệp có thể lo liệu được một phần, phần còn lại phải trông vào sự chi viện của công nghiệp. Cả công nghiệp trung ương lẫn công nghiệp địa phương đều phải ra sức chi viện cho nông nghiệp làm cho công nghiệp đóng được vai trò đòn bẩy của nó đối với nông nghiệp. Song, trước mắt trong khi công nghiệp trung ương vẫn đang trong quá trình xây dựng, công nghiệp địa phương tất phải đóng vai trò chủ yếu. Vả chăng, để bước đầu nâng cao được năng suất lao động của nông nghiệp đạt mức 1 lao động/1 héc ta thì cũng chưa nhất thiết phải có nhiều máy móc lớn và tinh xảo. Chỉ cần hợp lý hóa việc tổ chức lao động và trang bị công cụ cải tiến một cách phổ biến cho lao động nông nghiệp là có thể đạt được mục tiêu ấy một cách không khó khăn lắm. Nói tóm lại, dù bằng phương tiện của bản thân nông nghiệp hay bằng tác dụng của công nghiệp địa phương thì việc bước đầu nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp cũng vẫn chủ yếu tùy thuộc và những cố gắng và sáng kiến của các cơ sở sản xuất và các địa phương.

Thực tiễn những năm vừa qua chứng minh rất rõ điều đó. Nhìn vào những hợp tác xã 8 tấn, 10 tấn, những huyện 6 tấn, 7 tấn, những tỉnh 5 tấn, ta thấy họ đạt được bước nhảy vọt đó về năng suất lúa (năng suất cây trồng liên quan mật thiết với năng suất của lao động nông nghiệp) chẳng phải vì đã đạt được những bước nhảy vọt nào đó về kĩ thuật, hoặc vì đã nhận được một sự chi viện đặc biệt to lớn nào đó của công nghiệp nặng. Giữ vai trò quyết định ở đây chỉ là việc tận dụng nguồn lao động nông nghiệp dồi dào và tổ chức hợp lý lao động. Tận dụng mọi nguồn dự trữ và mọi phương tiện sẵn có của nông nghiệp, sử dụng phổ biến công cụ cải tiến và lợi dụng một cách có hiệu quả cao nước phương tiện kĩ thuật do công nghiệp nặng cung cấp, nói tóm lại, chủ yếu vẫn là tinh thần chủ động, tích cực của cơ sở, của địa phương. Trong khi các địa phương này đạt được những năng suất tiên tiến như thế thì nhiều hợp tác xã khác, huyện khác, tỉnh khác, mặc dù điều kiện tự nhiên và điều kiện kĩ thuật không kém thuận lợi hơn, vẫn lẹt đẹt ở những mức năng suất thấp hơn nhiều. Nguyên nhân, xét cho đến cùng, chỉ là vì thiếu tích cực chủ động phát huy những khả năng tiềm tàng của mình về lao động, về tài nguyên, về phương tiện, về công nghiệp địa phương, v.v… Chủ trương phát triển kinh tế địa phương chính là nhằm phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các cơ sở sản xuất, các địa phương, hướng vào việc tận dụng mọi khả năng tiềm tàng của mình để phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động.

Năng suất lao động được nâng cao trong khi quy mô sản xuất không đổi thì số người lao động ắt phải thừa ra. Sử dụng họ vào việc gì? Đó là một vấn đề rất lớn hiện nay. Các công trình mới (về công nghiệp, giao thông vận tải, kiến trúc, v.v…) của Nhà nước xã hội chủ nghĩa hàng năm đều thu hút thêm lao động, nhưng số này tương đối nhỏ. Trong khi ấy, có rất nhiều nghề xưa nay vẫn nương nhờ vào nghề trồng lương thực và chỉ mong có dịp là tung cánh bay thoát khỏi bóng rợp của cây lương thực để trở thành những ngành sản xuất độc lập. Đó là nghề chăn nuôi gia súc và gia cầm, trồng cây công nghiệp, trồng rau, trồng cây ăn quả, đan lát, mộc, nề, v.v… Mỗi cây, mỗi con, mỗi sản phẩm thủ công đều có thể trở thành đối tượng chuyên môn hóa của một ngành sản xuất độc lập (trong phạm vi một đội sản xuất của hợp tác xã, trong phạm vi một hợp tác xã, hoặc trong phạm vi cả một vùng). Ngoài ra, còn rất nhiều nghề, tuy lâu nay đã từng tồn tại như một ngành sản xuất độc lập, nhưng vì chịu ảnh hưởng của một nền nông nghiệp quá nghèo nàn, lạc hậu (lương thực và thực phẩm không ổn định, thị trường eo hẹp, nguyên liệu thiếu thốn, v.v…) cho nên không có địa bàn rộng rãi để phát triển. Đó là trường hợp của các nghề biển, nghề rừng, thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp. Một khi năng suất của lao động nông nghiệp được nâng cao, sản phẩm thặng dư nông nghiệp trở nên dồi dào, lao động nông nghiệp được giải phóng liên tục ra khỏi lĩnh vực sản xuất cũ, thì các nghề phụ sẽ lần lượt tách ra khỏi nông nghiệp để trở thành những ngành sản xuất độc lập, còn những ngành sản xuất phi nông nghiệp lâu nay bị kìm hãm thì sẽ đua nhau phát triển theo những nhu cầu mới của đời sống. Dưới chế độ tư hữu, quá trình này chỉ có thể diễn ra một cách tự phát, theo sự “chỉ dẫn” thường là rất nhạy bén của giá cả thị trường. Còn dưới chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa người lao động tập thể có thể nhận thức được kế hoạch hóa được và điều khiển được quá trình phát triển theo quy luật của phân công lao động xã hội. Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội chính là ở chỗ đó. Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng hễ có chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa thì mọi việc sẽ tự động diễn ra một cách tốt đẹp. Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa chỉ cho ta khả năng nhận thức được, kế hoạch hóa được và điều khiển được các quá trình kinh tế khách quan diễn ra trong xã hội chứ không thay thế được con người để nhận thức, kế hoạch, điều khiển chúng. Vì vậy, để kế hoạch hóa và điều khiển được quá trình phát triển theo quy luật phân công lao động xã hội ở nước ta, người lao động tập thể (mà đại diện là các cơ quan quản lý kinh tế) phải ra sức tìm tòi, điều tra, nghiên cứu để nhận thức được các nhân tố tác động đến quá trình đó. Giả định người lao động tập thể đó là một hợp tác xã mà đại diện là ông chủ nhiệm. Ông chủ nhiệm hợp tác xã phải nắm chắc tổng số lao động của hợp tác xã, tình trạng và trình độ nghề nghiệp của mỗi loại lao động, tổng số ngày công có thể huy động và đã huy động, số ngày công dôi ra do tăng năng suất lao động nhờ các biện pháp mới (như giải phóng đôi vai, sử dụng máy bơm nước, sử dụng thuốc trừ sâu, v.v…). Làm gì để sử dụng một cách có lợi nhất số lao động dôi ra này? Muốn tìm ra câu giải đáp, ông chủ nhiệm phải soát lại các loại tài nguyên của hợp tác xã (ruộng đất, ao hồ, đồi bãi, rừng rú, v.v…), các loại vốn của hợp tác xã, các phương tiện vật chất kĩ thuật trong tay hợp tác xã, các ngành kinh doanh của hợp tác xã, xem thứ gì đã được khai thác tốt rồi, thứ gì chưa tốt, thứ nữa nếu đầu tư thêm lao động (và vốn liếng) thì sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Cân nhắc khả năng kinh doanh, lại phải cân nhắc nhu cầu tiêu dùng nữa (cả nhu cầu của địa phương, của nhu cầu của trung ương). Cuối cùng mới đi tới kết luận dùng số lao động dôi ra hoặc sẽ dôi ra này để mở mang ngành nghề gì, cái nào trước, cái nào sau. Có thể là phát triển thêm đàn lợn (của hợp tác xã và của gia đình xã viên) bao gồm cả việc phát triển các cơ sở thức ăn cho lợn. Có thể là đắp bờ thả cá để tận dụng số ao hồ còn bỏ hoang. Có thể là trồng chè, trồng mít, trồng cây lấy gỗ trên những đồi trọc. Có thể là kinh doanh thêm nghề nuôi vịt để tận dụng cua ốc trên bãi biển, cửa sông. Có thể là phát triển ngành nghề đan lát cổ truyền thành một ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Có thể là phải cử người đi học một nghề thủ công nào đó chuyên làm hàng gia công mà xưa nay trong vùng chưa ai biết. Trong tình hình nước ta đang từ một nền nông nghiệp độc canh tiến lên, khả năng tiềm tàng rất phong phú, nhu cầu cũng hết sức nhiều vẻ, thì sự phân công lao động mới thế tất phải “bung ra” theo nhiều hướng. Nó cũng thế tất phải diễn ra chủ yếu ở các cơ sở sản xuất nông nghiệp, ở các địa phương. Người lao động tập thể ở các cơ sở sản xuất nông nghiệp, ở các địa phương mà không nhận thức tính tất yếu và khả năng rộng lớn ấy của sự phân công lao động mới, không tích cực chủ động triển khai sự phân công lao động ấy một cách đúng lúc, đúng hướng, thì cũng chẳng khác nào tự biến mình thành chướng ngại vật cho sự phát triển hợp quy luật của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Rất đáng tiếc là nông thôn ta hiện nay không hiếm những hiện tượng như thế. Hầu như hợp tác xã nào cũng có hàng chục, hàng trăm lao động nhàn rỗi (ít ra thì cũng nhàn rỗi theo thời vụ), trong khi đó, rất nhiều ao hồ, đồi bãi chưa được khai thác hoặc chưa khai thác tốt. Ao hồ, đồi bãi là tài sản công hữu của hợp tác xã, không ai được tự ý khai thác. Nhưng hợp tác xã thì lại không phân công người khai thác, chẳng tổ chức việc khai thác. Rút cục, cả lao động lẫn đất đai đều chịu “thất nghiệp” không kết hợp được với nhau để làm ra của cải, trong khi đời sống thì thiếu thốn đủ mọi thứ!

Chủ trương phát triển lương thực địa phương cũng tức là giao trách nhiệm cho các địa phương, yêu cầu các địa phương ra sức phát huy tinh thần tích cực chủ động của mình để chăm lo phát triển kinh tế địa phương. Nếu địa phương nào cũng làm được như vậy thì mọi nguồn lao động ở địa phương sẽ được tận dụng, năng suất sẽ được nâng cao (mọi sự phân công chuyên môn hóa đều làm cho năng suất lao động nâng cao hơn), và sự phân công lao động mới sẽ dần dần xuất hiện.

Sự phân công lao động mới này chưa phải là sự phân công lao động của nền sản xuất lớn, hiện đại. Cơ sở kĩ thuật của nó chủ yếu vẫn là kĩ thuật thủ công. Song, đây không còn là sự phân công lao động đơn điệu của nền nông nghiệp độc canh nữa, mà là sự phân công lao động phát triển hơn của một nền nông nghiệp đa canh và một nền kinh tế có nhiều ngành nghề phát triển. Như chúng ta đã biết, một nền nông nghiệp như thế và một nền kinh tế như thế là điều kiện quan trọng nhất để triển khai công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Trong khi các địa phương tiến hành cuộc phân công lao động mới như trên thì trung ương cũng tiến hành một cuộc phân công lao động mới, tuy quy mô thì không rộng lớn bằng nhưng chất lượng thì lại cao hơn nhiều. Đây là sự nhảy vọt từ lao động thủ công lên lao động cơ khí, từ sự phân công lao động của nền nông nghiệp thô sơ lên sự phân công lao động của nền sản xuất lớn, cơ khí hóa và tự động hóa. Cuộc phân công lao động trước tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc phân công lao động sau. Cuộc phân công lao động sau thúc đẩy cuộc phân công lao động trước mở rộng ra hơn nữa, đi sâu vào chuyên môn hóa hơn nữa, đồng thời từng bước tạo điều kiện cho nó tiến lên lấy kĩ thuật hiện đại làm cơ sở. Hai cuộc phân công này hỗ trợ cho nhau, bổ sung cho nhau, và thúc đẩy lẫn nhau. Đi bằng cả hai chân như vậy, đó là phương thức tốt nhất để mau chóng xóa bỏ sự phân công lao động cũ, tạo ra sự phân công lao động mới, đẩy nhanh quá trình cải biến nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Phát triển kinh tế địa phương để kết hợp chặt chẽ thành thị với nông thôn, mau chóng thành thị hóa nông thôn, công nghiệp hóa nông nghiệp

Phân công lao động xã hội phát triển (đặc biệt là dưới hình thức công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa) thì tất yếu đưa đến sự tách rời giữa một bên là lao động nông nghiệp và một bên là lao động công nghiệp. Lao động nông nghiệp không thể không phân tán theo ruộng đất trồng trọt, còn lao động công nghiệp, vì phải gắn với nguồn nước, nguồn điện, nguồn nguyên liệu, đầu mối giao thông vận tải, v.v… cho nên có xu hướng quây quần lại với nhau ở những địa điểm nhất định và biến những địa điểm này thành thành thị.

Nước ta bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc điểm này bao hàm nhiều khó khăn phức tạp, song, mặt khác, nó lại tránh cho ta nhiều tệ nạn do chủ nghĩa tư bản để lại. Trong số những tệ nạn ấy, phải kể đến sự phân bố không hợp lý của các thành phần và sự tập trung quá mức công nghiệp và dân cư vào các thành phố lớn. Tình trạng này khiến cho nông thôn cách xa thành thị, không dễ gì tiếp cận với ánh sáng văn minh của thành thị, còn thành thị thì vấp phải nhiều vấn đề rất khó giải quyết: tiếp tế thực phẩm khó khăn, xe cộ bề bộn, đi lại bất tiện (từ nhà ở đến sở làm việc cách xa hàng chục ki-lô-mét), nhà ở chen chúc, nguồn nước không đủ, các công trình văn hóa không đủ, đất, nước, và không khí đều bị nhiễm bẩn (vì rác rưởi của người, vì nước thải và khói bụi của công nghiệp, vì khí xả của xe cộ, v.v…), việc giữ gìn trật tự an ninh đặc biệt phức tạp, v.v… Xét về mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp thì việc tập trung quá mức công nghiệp và dân cư vào một số ít thành phố lớn đã làm nông nghiệp mất đi một nguồn phân bón tự nhiên rất lớn, làm cho nước và không khí của công nghiệp đều tăng lên, làm cho việc trao đổi giữa công nghiệp và nông nghiệp bị cách bức, v.v…

Nêu lên những hậu quả tai hại do sự đối lập giữa thành thị và nông thôn dưới chế độ tư bản chủ nghĩa gây ra, Mác và Ăng-ghen đã chứng minh một cách hùng hồn tính tất yếu của việc kết hợp thành thị với nông thôn, công nghiệp với nông nghiệp dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Mác viết:

“Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trong khi tập hợp dân cư lại trong các trung tâm lớn, và tạo ra một ưu thế ngày càng lớn cho dân cư thành thị, thì như thế là một mặt nó tích lũy nguyên động lực lịch sử của xã hội; và mặt khác, không những nó phá hoại sức khỏe của công nhân thành thị và sinh hoạt tinh thần của những người lao động nông thôn, mà còn phá hoại sự tuần hoàn vật chất giữa con người và đất đai, làm cho ngày càng khó hoàn lại cho đất đai các yếu tố màu mỡ, v.v…. Nhưng, trong khi đảo lộn các điều kiện trong đó một xã hội lạc hậu tiến hành một cách gần như là tự phát sự tuần hoàn đó thì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa buộc phải khôi phục một cách có hệ thống sự tuần hoàn đó dưới một hình thức thích hợp với sự phát triển toàn vẹn của nhân loại và thành quy luật điều hòa của nền sản xuất xã hội”.

Bàn về vấn đề nhà ở, Ăng-ghen cũng viết:

“Tiêu diệt sự đối lập giữa thành thị và nông thôn không phải là ảo tưởng mà tiêu diệt sự đối kháng giữa bọn tư bản và công nhân làm thuê cũng không phải là một ảo tưởng. Việc tiêu diệt đó càng ngày càng trở thành yêu cầu thực tế của sản xuất công nghiệp cũng như sản xuất nông nghiệp. Không ai đã đòi hỏi điều đó kịch liệt hơn Li-bích trong tác phẩm về hóa học nông nghiệp của ông; trong những tác phẩm đó, ông đòi hỏi trước hết và luôn luôn đòi hỏi là người ta phải hoàn cho đất những cái gì đã thu của đất, và chứng minh sự tồn tại của các thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn đã cản trở điều đó. Khi người ta thấy rằng ở đây, chỉ riêng ở Luân-đôn mà thôi, hàng ngày người ta đã hao phí để đổ xuống biển một số phân bón tự nhiên nhiều gấp bội số phân bón mà toàn bộ vương quốc Xắc-cơ có thể sản xuất ra, và khi người ta thấy rằng phải có những kiến trúc lớn lao như thế nào thì mới giữ được cho toàn thành phố Luân-đôn khỏi bị những phân bón đó đầu độc, thì lúc đó, điều không tưởng là tiêu diệt sự đối lập giữa các thành thị và nông thôn sẽ có một cơ sở cực kỳ thực tế. Bản thân Bá-linh, tương đối không lớn lắm, cũng ngộp thở trong những đống rác rưởi của chính mình từ ít nhất ba mươi năm nay. Mặt khác, muốn làm đảo lộn xã hội tư bản hiện tại mà vẫn giữ nguyên tình trạng hiện thời của người nông dân, như Pơ-ru-đông chủ trương, thì thật là một điều hoàn toàn không tưởng. Giả định là đã thực hiện được việc thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa rồi, thì chỉ có phân phối hết sức đều dân cư trong toàn quốc và kết hợp chặt chẽ sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp, đồng thời phát triển những phương tiện giao thông lúc đó đã trở thành cần thiết, chỉ có như thế mới có thể lôi kéo dân cư nông thôn khỏi tình trạng cô lập và ngu muội trong đó họ đã sống lay lắt hầu như không thay đổi từ muôn nghìn năm nay”.

Ở một tác phẩm khác, sau khi vạch rõ chính phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa đã làm cho nền công nghiệp hiện đại bị tập trung một cách bất hợp lý vào các thành phần lớn – điều này khiến cho mọi nguồn nước trong đều bị biến thành nước phân hôi thối, và như vậy, phá hoại chính ngay điều kiện để sử dụng hơi nước – Ăng-ghen rút ra kết luận:

“Chỉ có một xã hội nào phối hợp được các lực lượng sản xuất của nó ăn khớp một cách nhịp nhàng những đường lối lớn lao của một kế hoạch duy nhất thì mới có thể khiến cho công nghiệp xây dựng được trên khắp cả nước theo một sự phối trí nào đó, sao cho thích hợp nhất đối với sự phát triển của chính xã hội đó và đối với việc duy trì hoặc phát triển yếu tố sản xuất khác.

Như vậy, việc xóa bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn không những chỉ là một việc có thể thực hiện được mà thôi đâu. Nó đã trở thành một sự cần thiết trực tiếp của chính ngay nền sản xuất công nghiệp, cũng như nó đã trở thành một sự cần thiết trực tiếp của chính ngay cả nền sản xuất công nghiệp, và ngoài ra, cho cả vệ sinh công cộng nữa. Chỉ có hòa lẫn thành thị với nông thôn thì mới có thể trừ khử được nạn nhiễm độc hiện nay của không khí, của nước và của đất; chỉ có việc hòa lẫn như thế mới có thể đưa được quần chúng ngày nay đang sống mòn mỏi trong các thành thị, đến cái nơi mà phân của họ để sinh sản ra cây cối, chứ không phải để sinh ra các bệnh tật nữa”.

Nếu như việc tập trung quá mức công nghiệp và dân cư vào các thành phần lớn chỉ là hậu quả của phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa, nếu việc phân bố hợp lý công nghiệp (và do đó phân bố hợp lý thành thị) là đòi hỏi bức thiết của chính ngay sản xuất công nghiệp, của chính ngay sản xuất nông nghiệp và của cả vệ sinh công cộng nữa thì hiển nhiên là chúng ta không nên để cho mình bị rơi vào vết xe cũ của chủ nghĩa tư bản, khi mà chủ nghĩa xã hội đã cho chúng ta khả năng để thực hiện một sự phân bố hợp lý nhất các lực lượng sản xuất của chúng ta. Phát huy tính ưu việt đó của chủ nghĩa xã hội nhằm kết hợp tốt nhất công nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn, đặng mau chóng thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp, thành thị hóa nông thôn, đó chính là một nội dung quan trọng của đường lối phát triển kinh tế địa phương. Đồng chí Lê Duẩn viết:

“Xây dựng kinh tế trung ương đồng thời phát triển kinh tế địa phương là cách đi tốt nhất để kết hợp thành thị với nông thôn, nhanh chóng xóa bỏ sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn. Thông qua việc xây dựng các cơ sở công nghiệp trung ương trên địa bàn thích hợp và thông qua việc xây dựng kinh tế địa phương bao gồm nông nghiệp và công nghiệp địa phương, chúng ta có thể phát triển cả thành thị lẫn nông thôn. Các thành thị ở nước ta sẽ mọc lên trên nhiều địa điểm khác nhau, gắn với các vùng nông thôn. Ngoài một số ít thành thị tương đối lớn làm trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa cho toàn quốc, chúng ta sẽ dựa trên cơ sở phát triển kinh tế, xây dựng nhiều thành thị vừa và nhỏ ở nhiều nơi để tác động trực tiếp đến các vùng nông thôn, nhanh chóng đưa các vùng đó tiến lên cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa, xã hội, tạo nên một bộ mặt mới trên khắp các vùng của đất nước, từ miền xuôi đến miền ngược, làm cho mọi người dân Việt Nam dù sống trên miếng đất nào của Tổ quốc cũng đều có một đời sống vật chất đầy đủ, một đời sống văn hóa phong phú và lành mạnh”.

Qua đoạn văn trên đây của đồng chí Lê Duẩn, chúng ta có thể hình dung sự phân bố công nghiệp và thành thị ở nước ta trong tương lai như sau: một số ít thành phần tương đối lớn (khoảng trên dưới 1 triệu dân) làm trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa cho toàn quốc; bên cạnh đó, mỗi tỉnh đều có một thành phố lớn của nó (một hoặc mấy cái) thuộc loại vừa và nhỏ, mỗi huyện đều có thị trấn (một hoặc mấy cái). Những thành phố và thị trấn này là cứ điểm công nghiệp (cả công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương) của giai cấp công nhân nhằm tác động vào nông nghiệp và nông thôn xung quanh. Chúng cung cấp điện lực, máy móc, công cụ, công cụ cải tiến và các vật tư kĩ thuật khác cho nông nghiệp, sửa chữa máy móc cho nông nghiệp, nhận sản phẩm của nông nghiệp về chế biến, sản xuất và cung cấp cho nông dân trong vùng nhiều loại hàng tiêu dùng thích hợp, đào tạo cho nông thôn nhiều loại lao động lành nghề, thu hút một bộ phận lao động nông nghiệp ngày càng lớn vào các ngành công nghiệp, kiến trúc, giao thông vận tải, thương nghiệp và dịch vụ thành phố, v.v… Chúng là thị trường rất thuận tiện của nông nghiệp về các loại hàng lương thực, thực phẩm, đặc biệt về các loại hàng tươi sống (khoai, sắn, rau, quả, cá thịt, tôm cua,…). Chúng trả về cho trồng trọt và chăn nuôi nguồn phân bón và phế liệu mà trong nhiều trường hợp, các thành phố lớn không có cách nào khác hơn là đem đổ ra sông, ra biển. Những thành phố và thị trấn này còn là những cứ điểm văn hóa của giai cấp công nhân thường xuyên rọi ánh sáng vào các vùng nông thôn. Dù chúng ta có xây dựng ở thủ đô Hà Nội nhiều cung văn hóa to đẹp đến đâu đi nữa thì nhân dân các vùng Tây Bắc, Việt Bắc, Thanh, Nghệ… cũng không thể nào ra đó luôn mà thưởng thức được. Nhưng, nếu mỗi tỉnh hoặc mỗi vùng trong tỉnh có nhà văn hóa riêng, tuy không to đẹp lắm nhưng gần, thì nông dân trong tỉnh đều có thể lui tới luôn. Tất nhiên, không phải chỉ có nhà văn hóa. Còn trường đại học, trường trung cấp chuyên nghiệp, viện nghiên cứu khoa học, bệnh viện, cung thể thao cùng bao nhiêu cơ sở hoạt động tinh thần, văn hóa và khoa học khác nữa, hằng ngày từ các thành phố truyền ánh sáng văn minh vào các vùng nông thôn. Một hệ thống thành thị như thế chỉ có thể là sản phẩm của một đường lối phân bố hết sức hợp lý các lực lượng sản xuất – đường lối phát triển kinh tế địa phương đồng thời với việc xây dựng kinh tế trung ương.

Phát triển kinh tế địa phương đã tạo cơ sở kinh tế vững chắc cho nền quốc phòng toàn dân, bảo đảm hậu cần tại chỗ cho cuộc chiến tranh nhân dân chống Mĩ cứu nước

Đối với nội dung như trên, phát triển kinh tế địa phương là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của công cuộc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực quân sự, nó cũng có tầm quan trọng chiến lược: nó tạo cơ sở vững chắc cho quốc phòng toàn dân. Vai trò này của kinh tế địa phương gắn liền với đặc điểm của chiến tranh nhân dân ở nước ta. Đồng chí Lê Duẩn viết:

“Sức mạnh của chiến tranh nhân dân ở nước ta là sức mạnh của toàn dân vùng lên đánh giặc, được tổ chức thành lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, có những lối đánh thích hợp trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng và thành thị. Mỗi tỉnh là một đơn vị chiến lược, về mặt tác chiến cũng như về mặt hậu cần, về mặt chiến đấu cũng như về mặt sản xuất. Vì vậy, chúng ta không những phải chăm lo xây dựng công nghiệp hiện đại, mà còn phải ra sức phát triển kinh tế địa phương vững mạnh, không những phải tạo nên những lực lượng sản xuất to lớn, mà còn phải biết bố trí những lực lượng đó trên những địa bàn nhất định, phù hợp với yêu cầu chiến lược quân sự. Làm được như vậy thì trong bất cứ loại chiến tranh nào, trong bất cứ hoàn cảnh chiến tranh nào, chúng ta cũng có thể giữ vững, phát triển năng lực chiến đấu, năng lực sản xuất và bồi dưỡng sức dân để đánh lâu dài”.

Trong hoàn cảnh một nước tương đối nhỏ, kinh tế lạc hậu, chúng ta không thể không áp dụng những chiến lược (và chiến thuật) giống như những nước lớn, đã có nền công nghiệp phát triển. Tỷ dụ như: đối với đội quân xâm lược của bọn đế quốc, chúng ta không thể ngăn chặn và tiêu diệt chúng ngay từ cửa ngõ của đất nước ta được. Nhưng trải qua kinh nghiệm chiến đấu lâu dài chống Pháp xâm lược trước đây và chống Mĩ xâm lược bây giờ, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo vô cùng sáng suốt của Đảng, đã sáng tạo ra chiến lược chiến tranh nhân dân vô địch. Nội dung, đặc điểm và sức mạnh của chiến lược này – như đồng chí Lê Duẩn đã tổng kết trong Phần thứ nhất của tác phẩm Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng… – là sức mạnh của toàn dân vùng lên đánh giặc, được tổ chức thành lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, tiến hành đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị song song; xây dựng lực lượng vũ trang thành ba thứ quân (quân du kích, bộ đội địa phương và quân chủ lực) phối hợp chặt chẽ với nhau và triển khai trên khắp các địa bàn chiến lược; đánh địch bằng cả ba mũi giáp tiến công – tiến công quân sự, tiến công chính trị và binh vận; có những đường lối đánh thích hợp trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng, và đô thị; nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, v.v… Trong cuộc chiến tranh nhân dân theo kiểu của ta, như thực tiễn đã chứng minh, mỗi tỉnh phải là một đơn vị chiến lược, về mặt tác chiến cũng như về mặt hậu cần, về mặt chiến đấu cũng như về mặt sản xuất.

Thích ứng với đường lối chiến tranh nhân dân trên đây, phải có một đường lối xây dựng kinh tế bảo đảm cơ sở kinh tế vững chắc cho nền quốc phòng toàn dân, bảo đảm hậu cần tại chỗ đến mức tối đa cho cuộc chiến tranh nhân dân. Đường lối đó – như đồng chí Lê Duẩn chỉ ra – là: vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa xây dựng kinh tế địa phương, vừa chăm lo xây dựng công nghiệp nặng hiện đại, vừa ra sức phát triển công nghiệp địa phương.

Để hoàn thành được vai trò của mình như một đơn vị chiến lược trong chiến tranh nhân dân, mỗi tỉnh phải xây dựng một cơ cấu kinh tế như thế nào để đáp ứng được về cơ bản những nhu cầu của bộ đội địa phương và dân quân du kích (trừ những vũ khí hiện đại), đồng thời bảo đảm được những điều kiện tối thiểu cần thiết về sản xuất và đời sống của nhân dân địa phương. Nói một cách cụ thể, mỗi tỉnh phải bảo đảm cung cấp được (ít ra là về cơ bản) lương thực, thực phẩm và những lương thực tiêu dùng thiết yếu cho quân dân trong tỉnh, bảo đảm cung cấp được những tư liệu sản xuất phổ thông cho nông nghiệp, giao thông vận tải và các ngành nghề khác trong tỉnh, như vậy để có thể duy trì và phát triển được sản xuất trong điều kiện có chiến tranh, bồi dưỡng sức dân để đánh lâu dài, và bảo đảm hậu cần tại chỗ cho các lực lượng vũ trang và nửa vũ trang.

Đương nhiên, chúng ta không chủ trương xây dựng mà cũng không có khả năng xây dựng trong phạm vi mỗi tỉnh một nền kinh tế có cơ cấu hoàn chỉnh, có khả năng tự túc về mọi mặt. Chúng ta chủ trương xây dựng trong phạm vi mỗi tỉnh một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý, kết hợp chặt chẽ nông nghiệp và công nghiệp địa phương, có khả năng khai thác tốt nhất mọi nguồn lao động, đất đai và tài nguyên thiên nhiên của địa phương để đáp ứng đến mức cao nhất những nhu cầu của địa phương về tư liệu tiêu dùng cũng như về tư liệu sản xuất. Một nền kinh tế địa phương như thế, ngay trong điều kiện có chiến tranh, vẫn có thể và cần phải nhận được sự chi viện của kinh tế trung ương, do đó, không thể bị tê liệt, mất phương hướng, khi tạm thời bị mất liên hệ với kinh tế trung ương vì lý do chiến sự.

Kết luận

Lần lượt qua các phần nội dung, chúng tôi đã thử đi sâu vào từng luận điểm của đồng chí Lê Duẩn trong phần Hai của tác phẩm Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng…. Trước khi kết thúc, không thể không nêu lên một đôi điều nhận xét tổng quát, hay nói đúng hơn: một đôi điểm thu hoạch chính của người viết sau khi nghiên cứu tác phẩm quan trọng này.

Nhận xét thứ nhất thuộc về mặt phương pháp. Ngay từ khi mở đầu bài này, chúng tôi đã nêu lên vấn đề phương pháp và để làm thí dụ, đã dẫn ra luận điểm của đồng chí Lê Duẩn về đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở nước ta. Bây giờ, sau khi lần lượt đi sâu vào từng luận điểm, chúng ta có đầy đủ căn cứ hơn để trở lại vấn đề này.

Mọi người đều biết, những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học – Mác, Ăng-ghen và Lênin – không tự đặt cho mình nhiệm vụ dựng lên một hệ thống giáo điều cho những người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa sau này, càng không tự đặt cho mình nhiệm vụ làm những nhà tiên tri về xã hội tương lai. Nếu các vị có phác họa ra những nét rất cơ bản của xã hội tương lai thì đó không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan mà xuất phát từ sự nghiên cứu tường tận những điều kiện vật chất của xã hội tư bản chủ nghĩa, những điều kiện này, theo những quy luật rất nghiêm khắc của lịch sử, tất yếu phải dẫn đến những kết quả như vậy. Chính vì đã phát hiện ra tính tất yếu khách quan đó của lịch sử, đã nhận thức được những quy luật khách quan, những chân lý khách quan, mà chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành một lực lượng vô địch. Tuy nhiên, không phải vì thế mà nó tự coi mình là hoàn bị. Mác, Ăng-ghen và Lênin luôn luôn đòi hỏi ở những người mác-xít một thái độ sáng tạo, đòi hỏi họ phải biết phân tích cụ thể tình hình lịch sử để rút ra kết luận thích hợp, phải biết vận dụng những nguyên lý phổ biến và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Đó mới chính là thái độ và phương pháp mác-xít – Lêninnít.

Tất cả các nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đều lấy những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin làm rường cột cho đường lối chính sách của mình. Điều này liên quan đến tính quy luật chung của các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, mỗi một nước lại không thể không mang những sắc thái riêng, vì tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử… của mỗi nước không giống nhau. Trong trường hợp của nước ta, càng cần phải nói như vậy. Chúng ta từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này in dấu vết không thể lầm lẫm được lên mọi mặt đời sống của xã hội và do đó, lên mọi mặt đường lối chính sách xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Không thấy điều đó thì rất dễ đi đến thái độ giáo điều đối với những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin và thái độ sùng bái, rập khuôn đối với kinh nghiệm của nước ngoài. Thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh rất rõ: lúc nào chúng ta có một thái độ giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài thì đều vấp váp rất tai hại; trái lại, những lúc chúng ta có thái độ độc lập, tự chủ, sáng tạo, biết vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta thì cách mạng tiến triển thuận lợi và đạt được thành tích to lớn.

Xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, tiến thẳng lên xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, là một trường hợp rất mới mẻ trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải mò mẫm, phải tích lũy kinh nghiệm, phải sáng tạo. Muốn vạch được con đường đi đúng đắn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, muốn nắm được những quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chẳng những phải nắm rất vững nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm rất vững những quy luật chung của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải thông hiểu kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, còn phải tìm tòi phát hiện ra những đặc điểm và quy luật riêng của nước ta nữa. Chính ở điểm then chốt này, đồng chí Lê Duẩn đã cho chúng ta một tấm gương sáng chói.

Ngay khi nói về chuyên chính vô sản ở nước ta, đồng chí đã nêu bật tính chung và tính riêng của nó. Tính chung của chuyên chính vô sản – như chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng chỉ ra – là ở chỗ: dù ở bất cứ điều kiện lịch sử nào cũng vậy, nó đều có một vai trò xây dựng và tổ chức rất lớn, đều mang một tính chủ động và tự giác rất lớn: chủ động và tự giác xây dựng xã hội mới. “Ở nước ta, chuyên chính vô sản ra đời trong tình hình lực lượng sản xuất hết sức lạc hậu, những tiền đề vật chất cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn rất yếu… Trong tình hình đó, tính chủ động của chuyên chính vô sản, vai trò xây dựng tổ chức của nó cùng tính tự giác của quần chúng lao động trong việc sáng tạo xã hội mới càng vô cùng quan trọng” (Lê Duẩn). Có nhận thức được đầy đủ tính chung và tính riêng ấy, sứ mệnh lịch sử ấy của chuyên chính vô sản ở nước ta thì mới phát huy được đầy đủ tinh thần cách mạng tiến công, mới thật sự tự giác và chủ động sáng tạo ra xã hội mới thông qua việc tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng.

Cùng với một sự hiểu biết sâu sắc những nguyên lý của nghĩa Mác – Lênin (về giai cấp và đấu tranh giai cấp) kết hợp với một sự hiểu biết sâu sắc về tình hình kinh tế – xã hội nước ta đang từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đồng chí Lê Duẩn đã rọi ánh sáng vào một vấn đề cơ bản của chuyên chính vô sản – vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở nước ta.

Ở bất cứ nước nào cũng vậy, nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản đều là hoàn thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở bất cứ nước nào cũng vậy đều bao gồm 3 mặt: phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa; tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng con người mới và kiến trúc thượng tầng mới, xã hội chủ nghĩa. Song, tùy theo tình hình cụ thể của mỗi nước, mỗi mặt cách mạng và xây dựng này, có nội dung, phương hướng và bước đi không giống nhau. Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của nước ta trong thời kì quá độ, đồng chí Lê Duẩn đã chỉ ra tính tất yếu của việc tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, trong đó cách mạng kĩ thuật là then chốt, đồng thời vạch ra một cách cụ thể vai trò, nội dung, phương hướng và bước đi của mỗi cuộc cách mạng; qua đây, một lần nữa ta thấy quy luật chung và quy luật riêng, cái phổ biến và cái đặc thù hòa với nhau trong một thể thống nhất; một lần nữa ta thấy nổi bật lên sức mạnh của sự suy nghĩ độc lập, sáng tạo, trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin.

Cũng cần phải nói như vậy về “đường lối phát triển kinh tế trong bước đi ban đầu”.

Mọi người đều biết, trong lịch sử đã từng diễn ra quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, và Mác là nhà khoa học đầu tiên đã phân tích và phát hiện đầy đủ các quy luật của quá trình đó (đặc biệt qua phần thứ Tư và phần thứ Tám của quyển thứ nhất, bộ Tư bản). Mác vạch ra rằng nền đại sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi nào những khối lượng khá lớn tư bản và sức lao động đã được tích lũy trong tay những người sản xuất hàng hóa; rằng điểm xuất phát của cuộc cách mạng công nghiệp – cuộc cách mạng đã làm đảo lộn nền sản xuất nhỏ cổ truyền và thay thế bằng nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa – chính là sức lao động trong giai đoạn công trường thủ công và tư liệu lao động trong giai đoạn cơ khí; rằng trong bước đi ban đầu của nó, khi chưa có máy móc, chủ nghĩa tư bản đã từng tìm thấy nguồn sức mạnh trong việc hiệp tác lao động và phân công lao động trên cơ sở hiệp tác đó. Nếu trừu tượng hóa mặt quan hệ sản xuất đi thì quá trình hình thành chủ nghĩa tư bản sẽ chỉ còn lại là quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, và những quy luật chi phối quá trình đó cũng chỉ còn lại là những quy luật chung chi phối bất cứ quá trình nào từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Đương nhiên, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa hay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đều in đậm dấu vết của nó lên quá trình này, song, những quy luật căn bản của quá trình này thì ở đâu cũng vậy. Thật không thể tưởng tượng được làm như thế nào sản xuất nhỏ có thể chuyển biến thành sản xuất lớn nếu trước đó không có những khối lượng khá lớn lao động quá khứ (dưới hình thái tư liệu lao động) tích lũy lại, trong tay nhà tư bản hay là trong tay người lao động tập thể. Không thể tưởng tượng được bất cứ một quá trình sản xuất lớn nào nếu không có một số lượng nhất định người lao động được tổ chức lại và phối hợp hành động dưới một hình thức hiệp tác và phân công lao động nhất định; những người lao động này phải được giải phóng ra khỏi lĩnh vực sản xuất nông nghiệp cổ truyền để có thể tập trung vào công nghiệp, đứa con đầu lòng của nền sản xuất lớn, hoặc tung vào bất cứ ngành sản xuất nào mà phân công lao động mới đòi hỏi. Càng không thể tưởng tượng được một nền sản xuất lớn theo đúng nghĩa của nó – tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa – nếu tư liệu lao động của nó chưa phải là nền kĩ thuật máy móc, nền kĩ thuật sẽ làm cho sản xuất quy mô lớn và sự hiệp tác lao động gắn liền với nó trở thành một tất yếu kĩ thuật.

Để định ra đường lối phát triển kinh tế trong bước đi ban đầu của nước ta, không thể không nắm vững những quy luật chung đó của quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Tuy nhiên, như thế chưa đủ. Còn phải nắm vững những đặc điểm và khả năng to lớn mà chế độ xã hội chủ nghĩa và thời đại mới đem lại cho quá trình đó. Tất cả phải được đặt trong khung cảnh Việt Nam, trên mảnh đất Việt Nam, với những đặc điểm của nó về kinh tế – xã hội, với những nhu cầu và khả năng của nó. Đó chính là phương pháp mà đồng chí Lê Duẩn đã sử dụng một cách đầy sáng tạo, và chính phương pháp này đã khiến cho những điều trình bày về đường lối phát triển kinh tế trùng hợp với những quy luật và tính tất yếu khách quan đến mức gần như chúng không còn mang vẻ gì là những sáng tạo chủ quan nữa.

Chỉ cần gợi lại một cách sơ lược như trên, chúng ta cũng thấy được sợi chỉ đỏ về phương pháp xuyên qua toàn bộ tác phẩm của đồng chí Lê Duẩn (ở đây nói đến phần Hai, nhưng không phải chỉ phần Hai). Chính phương pháp mác-xít – Lêninnít đó đã khơi nguồn cho sự sáng tạo phong phú, đã tạo nên sức mạnh, sức thuyết phục, cái mới mẻ và sự đúng đắn của các luận điểm. Thật không phải ngẫu nhiên mà vấn đề phương pháp trở thành một điểm thu hoạch nổi bật của tất cả những ai nghiên cứu tác phẩm của đồng chí Lê Duẩn.

Nhận xét tổng quát thứ hai mà cũng là điểm thu hoạch nổi bật thứ hai thuộc về nội dung và ý nghĩa của tác phẩm.

Đại hội lần thứ ba của Đảng ta (năm 1960) được phân tích một cách sâu sắc tình hình mọi mặt miền Bắc nước ta và đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa: sử dụng chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng và văn hóa; nhằm biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến. Đại hội khẳng định phải lấy công nghiệp làm chủ đạo, lấy nông nghiệp làm cơ sở để phát triển công nghiệp, phải phát triển công nghiệp địa phương đi đôi với phát triển công nghiệp trung ương, v.v… Thực tiễn chứng minh rằng đường lối do Đại hội đề ra là hoàn toàn đúng đắn.

Tuy nhiên, nếu cho rằng đường lối cách mạng chỉ cần vạch ra một lần là đủ thì sẽ rơi vào chủ nghĩa đơn giản hoặc siêu hình. Cũng không thể đòi hỏi Đại hội phải dự kiến và giải đáp hết thảy mọi điểm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là khi công cuộc mới mẻ và phức tạp này mới bắt đầu. Nói chung, sự đúng đắn về đường lối, dù chỉ trên những nét rất cơ bản đã là bảo đảm chắc chắn cho thắng lợi của cách mạng.

Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta đã phải qua 10 năm thực tiễn kể từ sau Đại hội. Thực tiễn sinh động và phong phú đã kiểm nghiệm các đường lối chính sách của Đảng, đã làm bộc lộ rõ hơn nhiều đặc điểm và quy luật của cách mạng Việt Nam, đã đặt ra những vấn đề mới và tạo ra những khả năng mới. Nhiều nghị quyết của Trung ương Đảng cũng đã cụ thể hóa thêm đường lối của Đại hội và giải quyết một cách sáng tạo nhiều vấn đề mới do đời sống đặt ra.

Khái quát, tổng kết và giải đáp các vấn đề trên đây, đồng chí Lê Duẩn đã làm cho đường lối của Đảng thêm cụ thể, sinh động, đáp ứng những yêu cầu mới của thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Trên một loạt vấn đề mấu chốt của cách mạng như: đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở nước ta, nội dung, phương hướng, và bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa nước ta (nội dung, phương hướng, và bước đi của ba cuộc cách mạng – cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kĩ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa), đường lối phát triển kinh tế trong bước đi ban đầu (ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng kinh tế trung ương đồng thời phát triển kinh tế địa phương…), đồng chí đã có những cống hiến to lớn về mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận.

Với những nội dung như trên, đồng chí Lê Duẩn đã đặt cơ sở lý luận vững chắc cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ở đây, chẳng những có sự tác động của những quy luật chung, phổ biến đối với mọi quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà còn có sự tác động của những quy luật đặc thù bắt nguồn từ những điều kiện kinh tế – xã hội của một nước nông nghiệp cực kì lạc hậu, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế gần như tuyệt đối. Nắm được các quy luật này – cả quy luật phổ biến và quy luật đặc thù – tức là nắm được quy luật của cách mạng (xã hội chủ nghĩa) Việt Nam, và như vậy tức là tạo được tiền đề để tự giác, chủ động đưa cách mạng Việt Nam tiến lên vừa nhanh vừa vững chắc./.