Từ một nền kinh tế thuộc địa và nửa phong kiến tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (PHẦN 2)

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới 16 tuổi. Mười sáu năm không thể là một thời gian đủ dài để thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Tuy vậy, chặng đường khó khăn nhất, chúng ta đã vượt qua. Từ một nền kinh tế thuộc địa và nửa phong kiến, sau khi đập tan chế độ chiếm hữu và bóc lột thực dân, phong kiến và tư bản chủ nghĩa, chúng ta đang vươn lên với nhịp độ nhanh trên con đường xã hội chủ nghĩa.

Thực tế phát triển kinh tế của nước ta hoàn toàn chứng minh đường lối đúng đắn của Đảng, trong khi coi nhiệm vụ chống đế quốc và bè lũ tay sai là nhiệm vụ chủ yếu nhất, vẫn không một phút buông lỏng nhiệm vụ phản phong, tiến hành từng bước nhiệm vụ phản phong kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ phản đế. Ngay từ khi thành lập Đảng, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa hai mặt nhiệm vụ đó: “Hai mặt tranh đấu có liên quan với nhau, vì có đánh đổ chủ nghĩa đế quốc mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan chế độ phong kiến mới mới đánh đổ được chủ nghĩa đế quốc”. Thực ra, không phải ngay một lúc mà toàn thể đảng viên của Đảng đều nhận rõ ngay được chân lí đó. Phải qua đấu tranh lâu dài mới khắc phục được tư tưởng hữu khuynh trong một số đảng viên cho rằng trong khi chĩa mũi nhọn vào kẻ thù đế quốc thì không nên đụng chạm đến quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến, sợ “tổn hại đến mặt trận đoàn kết kháng chiến”. Người ta sẽ không hiểu được những kì công của cuộc kháng chiến nếu không đánh giá đúng tác dụng của những cải cách dân chủ được thực hiện từng bước trong kháng chiến, tiến lên thực hiện cải cách ruộng đất, triệt để xóa bỏ quan hệ sản xuất phong kiến. Ai cũng biết cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc ta dựa vào nông thôn, lấy nông thôn làm căn cứ địa, để rồi từ nông thôn tiến về giải phóng thành thị. Kinh tế kháng chiến chủ yếu là nông nghiệp, lực lượng kháng chiến đông đảo nhất là lực lượng nông dân. Với một nền kinh tế cực kì lạc hậu, bị đè nặng dưới ách của địa chủ phong kiến, dân tộc ta đã không thể có một cơ sở vật chất – kinh tế tương đối vững vàng đã theo đuổi cuộc kháng chiến khốc liệt kéo dài 8-9 năm trời, nếu Đảng ta không luôn luôn quan tâm bồi dưỡng lực lượng cho nông dân, giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, từng bước giải phóng và tiến lên giải phóng hoàn toàn lực lượng sản xuất ở nông thôn ra khỏi sự kìm hãm của quan hệ sản xuất phong kiến.

Thực tế phát triển kinh tế của nước ta trong những năm qua chỉ ra rằng, chỉ có triệt để tiêu diệt những quan hệ sản xuất thực dân và phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất ra khỏi những trở lực đó, mới là con đường cứu vãn nền kinh tế dân tộc ra khỏi tình trạng bị nô dịch, nghèo nàn và lạc hậu. Chỉ 5-6 năm sau hòa bình lập lại, miền Bắc chúng ta đã đưa sản lượng lúa lên hơn gấp đôi lúc cao nhất trước chiến tranh, và đưa sản lượng công nghiệp lên gấp vài lần. Trong khi cùng khoảng thời gian đó, nền sản xuất miền Nam, về nông nghiệp cũng như công nghiệp, vẫn còn nằm ở dưới mức trước chiến tranh rất xa, mặc dù thiên nhiên phú cho miền Nam những điều kiện thuận lợi hơn nhiều so với miền Bắc. Gây ra tình trạng đình đốn, suy sụp của nền sản xuất miền Nam, chẳng phải là những nguyên nhân gì xa lạ, mà chính là do địa vị thống trị của tư bản độc quyền Mĩ – Pháp đang nắm giữ những vị trí yết hầu của nền kinh tế miền Nam, là liều thuốc độc “viện trợ” mà đế quốc Mĩ tiêm vào các mạch máu của nền kinh tế miền Nam, và sự phục hồi chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiến trong nông thôn miền Nam. Chính vì vậy mà mục tiêu trước mắt của phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam là giải phóng nền sản xuất miền Nam ra khỏi những lực lượng đen tối đó.

Sau khi giải phóng nền sản xuất miền Bắc ra khỏi xiềng xích của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phong kiến, đã có vấn đề đặt ra là tiến lên theo hướng nào, theo hướng tư bản chủ nghĩa hay là theo hướng xã hội chủ nghĩa?

Đại diện tư tưởng của giai cấp tư sản quả quyết rằng chỉ có đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa thì mới có được phồn vinh kinh tế. Họ dựa vào những khó khăn tạm thời của nền kinh tế trong những năm 1956-1957 (những khó khăn này phần lớn lại do hoạt động đầu cơ tích trữ của giai cấp tư sản gây ra) để mưu mô chứng minh rằng vì lẽ chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội “quá sớm” cho nên đời sống nhân dân mới gặp khó khăn. Theo họ thì sau khi cách mạng dân tộc dân chủ hoàn thành, nên có một thời gian để cho chủ nghĩa tư bản tự do phát triển; nói trắng ra nghĩa là: nên đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.

Đương nhiên, điều đó hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lao động, hoàn toàn không phù hợp với những điều kiện khách quan và quy luật phát triển khách quan của xã hội miền Bắc Việt Nam. Ai cũng biết cách mạng dân tộc dân chủ kết thúc ở miền Bắc đã xây dựng lên chính quyền dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo trên cơ sở liên minh công nông vững chắc, đã trao về tay nhân dân các vị trí yết hầu của nền kinh tế, hình thành nên lực lượng kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo đã chuẩn bị điều kiện cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đã biến cách mạng xã hội chủ nghĩa trở thành tất yếu khách quan. Muốn đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, tất phải thủ tiêu chuyên chính vô sản, thủ tiêu lực lượng kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa, và như vậy là xóa bỏ những thành quả của cách mạng và đưa cách mạng đi thụt lùi, kéo ngược bánh xe lịch sử trở lại – điều đó giai cấp công nhân và nhân dân lao động quyết không bao giờ chấp nhận.

“Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, chúng ta sẽ chiếu đúng vào lực lượng của chúng ta, theo lực lượng của giai cấp vô sản giác ngộ và có tổ chức, mà tiến ngay lên con đường xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chủ trương làm cách mạng không ngừng. Chúng ta quyết không dừng lại nửa chừng”[1]. Dưới ánh sáng của lí luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã đập tan mưu đồ của những kẻ muốn đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, tiếp tục đưa cách mạng tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại của chuyên chính vô sản ở trong nước và sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa hùng cường đứng đầu là Liên Xô vĩ đại, là tất cả những điều kiện cơ bản cần thiết bảo đảm cho miền Bắc nước ta có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.

“Do tình hình cụ thể của miền Bắc nước ta, trong thời kì đầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta lấy cải cách xã hội chủ nghĩa làm trọng tâm, đồng thời tiến hành bước một việc xây dựng chủ nghĩa xã hội… Trong nền kinh tế quốc dân miền Bắc, nông nghiệp chiếm bộ phận rất quan trọng; nông dân lao động là một lực lượng sản xuất to lớn. Muốn đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải đi từ nông nghiệp, phải dựa vững vào lực lượng của nông dân lao động và phát huy tính tích cực của họ. Vì thế, cải tạo nông nghiệp là khâu chính của toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa”[2]. Đường lối đúng đắn của Đảng đã đem lại thắng lợi rực rỡ: chỉ trong vòng 6 năm sau hòa bình lập lại, nền kinh tế nhiều thành phần của miền Bắc đã được cải tạo thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa căn bản thuần nhất, trong đó, mọi sự bóc lột và nguồn gốc đẻ ra sự bóc lột đều bị xóa bỏ. Dưới sự thúc đẩy của quan hệ sản xuất mới, lực lượng sản xuất đã và đang phát triển với tốc độ chưa từng thấy. Bản thân tình hình đó đã là câu trả lời sắc bén nhất cho những tư tưởng rụt rè, do dự của một số người trước phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, những người này cho rằng chừng nào chưa xuất hiện nền đại sản xuất cơ giới hóa trong nông nghiệp thì chưa có cơ sở vật chất để dựng lên những quan hệ hợp tác xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp. Phải chăng chúng ta cứ phải ngồi chờ nền đại sản xuất cơ giới hóa tự nó đến thì mới tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, hay là có thể chủ động, tích cực dựa vào lực lượng hợp tác của nông dân để thúc đẩy dựng lên nền đại sản xuất ấy? Nhìn vào lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất xã hội, chúng ta chẳng thấy chủ nghĩa tư bản trong buổi đầu sơ sinh của nó, đã từng dựa vào kĩ thuật thủ công của thời trung cổ để dựng lên những xí nghiệp hiệp tác giản đơn, những công trường thủ công tư bản chủ nghĩa đó sao? Và như vậy thì tại sao chủ nghĩa xã hội trong buổi đầu sơ sinh của nó, không thể có những xí nghiệp hợp tác giản đơn hay những công trường thủ công theo lối của nó? Tất nhiên cơ sở vật chất-kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội trong nông nghiệp không thể là con trâu và cái cày “chìa vôi”, mà phải là nền đại sản xuất cơ giới hóa. Chính quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và nửa xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp hiện hay đang mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển với tốc độ chưa từng thấy, và tương ứng với sự phát triển ấy của lực lượng sản xuất là sự củng cố và hoàn thiện không ngừng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Kết quả tất nhiên của sự phát triển ấy của lực lượng sản xuất, kết hợp với những thành tựu của công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, sẽ là sự xuất hiện của nền đại sản xuất cơ giới hóa trong nông nghiệp.

Trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, muốn “đưa nước ta từ chế độ sản xuất nhỏ là chủ yếu lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ ở nước ta… Điểm mấu chốt trong công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”[3]. Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới Mácxít – Lêninnít của Đảng, nền nông nghiệp trẻ tuổi của chúng ta đang vươn lên như măng mùa xuân, và chính nó là “ngọn đũa thần” sẽ cải biến nước ta từ một nước nông nghiệp, nghèo nàn và lạc hậu thành một nước công nghiệp xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.

[1] Lênin tuyển tập, Quyển I, phần II, Nhà xuất bản Sự thật, tr. 150.

[2] Văn kiện Đại hội, tập I, tr. 55, 59.

[3] Văn kiện Đại hội, tập I, tr. 65.