Định hướng có tính chiến lược của Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội là đào tạo thực hành, ứng dụng. Đó là đào tạo lý luận luôn gắn với việc vận dụng, ứng dụng trong hoạt động kinh tế – xã hội và gắn với nhu cầu của doanh nghiệp. Giáo sư Hiệu trưởng Trần Phương đã vạch ra định hướng chiến lược đó, đã gắn định hướng đó với Sứ mệnh và Tầm nhìn của trường ngay từ những năm tháng đầu thành lập trường, đã và chỉ đạo như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong mọi hoạt động của trường.
Đào tạo gắn với doanh nghiệp
Tôi nhớ, tháng 2 năm 2003, bà Nguyễn Thị Thanh Huyền, Giám đốc Công ty May 10 viết thư cho Giáo sư Hiệu trưởng Trần Phương đề nghị trường tổ chức một lớp đào tạo ngắn hạn để bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của Công ty về nghiệp vụ xuất nhập khẩu và những vắn đề liên quan đến thị trường xuất nhập khẩu mặt hàng dệt may (là sản phẩm của Công ty).
Giáo sư đã cho mời Chủ nhiệm Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ quản lý Nguyễn Mạnh Can, Chủ nhiệm Khoa Thương mại – Du lịch PGS.TS Trần Văn Chu và tôi – lúc đó là chuyên viên của Viện Nghiên cứu Quản lý và Kinh doanh của trường tới phòng làm việc của Hiệu trưởng tại Cảm Hội.
Sau khi nói về những điểm chính trong nội dung thư đề nghị của Công ty May 10, Giáo sư đã trao đổi với chúng tôi:
– Như các anh biết, chiến lược đào tạo của trường ta là đào tạo thực hành, ứng dụng. Việc các doanh nghiệp, mà cụ thể đây là Công ty May 10, đến đặt hàng cho một trường đại học dân lập như trường ta là một sự tin tưởng và đánh giá cao của doanh nghiệp đối với trường, rất đáng được coi trọng và ta phải cố gắng đáp ứng tốt nhất những yêu cầu thực tế của họ.
Dường như thấy ba chúng tôi đã hiểu rõ được tầm quan trọng của vấn đề, Giáo sư nói tiếp:
– Dựa vào đề nghị của Công ty May 10, theo tôi, ta phải chọn những nội dung cơ bản nhất, thiết thực nhất về lĩnh vực xuất nhập khẩu thì mới đáp ứng được yêu cầu của Công ty. Nhưng xuất nhập khẩu là vấn đề rất rộng, rất phức tạp. Tôi gợi ý đại thể trong tài liệu giảng nên có bốn nội dung chính như sau:
- Phần mở đầu cần ngắn gọn, bởi vì họ là những nhà kinh doanh thực tế, cớ gì phải nói dài.
- Những nội dung chính của một Hợp đồng xuất nhập khẩu.
- Một số tình huống xửlý rủi ro trong xuất nhập khẩu.
- Tình hình kinh doanh hàng dệt may trên thị trường quốc tế hiện nay.
Chờ cho chúng tôi ghi xong, Giáo sư nhấn mạnh thêm:
– Lưu ý là sau mỗi phần giảng cần có bài tập, tình huống, có câu hỏi để người nghe thảo luận, trao đổi. Không giảng lý luận suông. Tốt nhất là đưa vào các tình huống thực tế. Các anh là những người đã làm thực tế, tôi tin là các anh sẽ làm tốt.
Sang việc phân công, Giáo sư nói:
– Anh Chu đã làm Viện trưởng Viện Kinh tế đối ngoại ở Bộ Thương mại, chuẩn bị một bài, anh Đồng cũng đã làm xuất nhập khẩu nhiều năm trên thị trường nhiều nước, chuẩn bị một bài, anh Can chỉ đạo chung. Các anh chuẩn bị trong một tuần, rồi đưa tôi xem lại.
Ra về, trong suốt một tuần, cả ba chúng tôi đã tham khảo các tài liệu có trong tay, sưu tầm trên thư viện, trên mạng và bằng kinh nghiệm thực tế tích lũy được qua những năm tháng công tác, lăn lộn với thị trường đã soạn các bài giảng và bài tập theo như chỉ đạo của Giáo sư Hiệu trưởng.
Về tài liệu chuẩn bị của tôi, có 4 phần, gói gọn trong 32 trang, bao gồm các câu hỏi và bài tập tình huống (như ảnh minh chứng). Giáo sư đã xem rất kỹ và duyệt cho phép giảng.
Rồi như để bổ sung vào tài liệu giảng, Giáo sư trao cho tôi tập tài liệu tiếng Anh nói về toàn cầu hóa của GS Joseph E. Stiglitz “Globalisation and it’s discontents” (Toàn cầu hóa và những mặt trái của nó) và dặn tôi thêm:
– Trong Phần 4 (tôi hiểu ý của Giáo sư là phần nói về tình hình kinh doanh trên thị trường quốc tế) của bài giảng, anh nên nói thêm một số vấn đề về toàn cầu hóa. Mà về toàn cầu hóa thì ông này (GS Joseph E. Stiglitz) là người uyên thâm nhất. Ông ta nói cả mặt tốt và mặt trái của vấn đề. Chính vì thế, ta nên trang bị cho những người làm kinh tế.
Tôi thật sự cảm phục Giáo sư Hiệu trưởng, vì nhận thức sâu sắc được rằng Giáo sư có một tầm nhìn rất xa.
Khóa học bồi dưỡng cho lớp cán bộ chủ chốt của Công ty May 10 đã khai giảng ở Hội trường do trường thuê tại số 1B phố Cảm Hội và đã thành công tốt đẹp theo đúng yêu cầu của hai phía. Công ty May 10 đánh giá cao kết quả của khóa học, cảm ơn Ban Giám hiệu, Giáo sư Hiệu trưởng Trần Phương và các cán bộ, giảng viên của trường đã giúp trang bị cho đội ngũ cán bộ Công ty những nội dung thiết thực về xuất nhập khẩu và những hiểu biết về toàn cầu hóa, về tự do hóa thương mại,…
Sau khóa học đó, Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội còn mở nhiều lớp theo hướng kết hợp lý luận và thực hành cho các doanh nghiệp, như các lớp ở Nhà máy Giấy Bãi Bằng và nhiều nơi khác.
Định hướng đào tạo thực hành – ứng dụng được Giáo sư Hiệu trưởng Trần Phương quán triệt chỉ đạo từ khâu xây dựng chương trình đào tạo, biên soạn giáo trình, tài liệu giảng dạy cho đến khâu tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả đào tạo. Giáo sư đã kiểm tra, phê duyệt từng bộ đề thi để đảm bảo định hướng đào tạo thực hành – ứng dụng, được các khoa và các giảng viên nghiêm túc thưc hiện.
Khi chúng tôi trình Giáo sư về các bộ đề thi học phần Triết học và Logic học trong chương trình đào tạo thạc sĩ, Giáo sư đã phê: “Tôi đã xem, đồng ý về đại thể”. Tiếp đó, Giáo sư gợi ý thêm:
– Những câu hỏi vận dụng nên là những câu mở. Khoa có thể đưa ra tình huống để yêu cầu phân tích, vận dụng, nhưng cũng cho phép học viên đưa ra tình huống khác để phân tích, vận dụng;
– Khoa nên tiếp tục hoàn thiện các đề thi và đáp áp, dựa trên ý kiến của các phản biện;
– Đề thi về Logic còn bó hẹp vào các định nghĩa. Nên hướng vào việc vận dụng Logic trong hoạt động thực tiễn.
Trong một lần phê duyệt khác đối với bộ đề thi của Khoa Triết học và Khoa học xã hội, Giáo sư viết: “Tôi đã xem. Nhất trí về cơ bản. Tôi nói cơ bản là để dành không gian cho Khoa ngày càng hoàn thiện bộ đề thi theo hướng làm cho môn học ngày càng gắn chặt với đời sống kinh tế – xã hội”.
Đối với bộ đề thi các môn học của các khoa khác cũng vậy, định hướng đào tạo thực hành – ứng dụng luôn được Giáo sư chỉ đạo quán triệt. Chẳng hạn, khi phê duyệt bộ đề thi môn Kinh tế học quản lý, Giáo sư đã gợi ý loại bỏ những câu tính toán lý thuyết, những câu hỏi thiếu phần vận dụng. Ở nhiều chỗ, Giáo sư tự tay ghi bổ sung ý kiến của mình.
Cho đến nay, sau gần 30 năm hoạt động, Trường HUBT đã đào tạo cho xã hội hàng vạn cử nhân, kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ, dược sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ, mà các số liệu điều tra về việc làm và nghề nghiệp của trường cho thấy rằng sau khi tốt nghiệp, ai cũng có việc làm, có nhiều người đã trở thành doanh nhân thành đạt trên thị trường. Đó chính là nhờ định hướng chiến lược đào tạo đúng đắn – “lý luận gắn với thực hành – ứng dụng” – sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự chỉ đạo của Giáo sư Hiệu trưởng TRẦN PHƯƠNG./.