Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội – Đây là tên gọi và cũng đồng thời là mô hình hoạt động của một trường đại học thuộc hệ thống các trường đại học ngoài công lập của Việt Nam. Đó là một thực tế đã được xã hội công nhận và các nhà lãnh đạo cấp cao của nước ta qua 25 năm xây dựng và phát triển đánh giá – chỉ đạo nghiên cứu mở rộng mô hình này.
- Bối cảnh ra đời của trường ngoài công lập
Sau khi hòa bình được lập lại hoàn toàn ở miền Bắc từ năm 1954, theo mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì Nhà nước có trách nhiệm chăm lo cho dân mọi nhu cầu từ cái ăn, cái mặc, công ăn việc làm, cho đến việc học hành, chữa bệnh… Căn cứ vào mô hình đó, mọi loại hình trường tư thục đã từng tồn tại thời đó ở miền Bắc nước ta đều phải chuyển thành trường công lập. Trường công lập trở thành hình thái duy nhất của hệ thống giáo dục quốc dân.
Nhưng chỉ qua 20 năm thì mô hình quản lý kinh tế – ta thường có ấn tượng là “quan liêu, bao cấp” – không còn sức thuyết phục và phải chuyển sang thực hiện chính sách của nền kinh tế nhiều thành phần, mở ra triển vọng phát triển cho các trường ngoài công lập, bởi nó cho phép thu hút vốn đầu tư và nhân lực từ nhiều tầng lớp trong xã hội. Thế là, từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, do nhu cầu ngày càng cao của xã hội về giáo dục – đào tạo, trong khi nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, hệ thống các trường ngoài công lập đã trở thành một lực lượng ngày càng quan trọng bên cạnh lợi thế của các trường công lập. Qua khảo sát tổng thể về loại hình trường ngoài công lập (không chỉ là các trường đại học, mà cả các trường trung cấp, cao đẳng, THPT, THCS, mầm non, mẫu giáo,…), có thể thấy sự phát triển đa dạng và sự phấn đấu cho sự tồn tại và phát triển cũng vô cùng phong phú. Đó là:
– Xét theo tiêu chí ai là người bỏ vốn đầu tư thành lập trường ngoài công lập thì các trường này tạm phân chia làm 2 loại: các trường lúc đầu do các tổ chức xã hội nghề nghiệp và tổ chức đoàn thể thành lập được gọi là “trường dân lập”, và các trường do một người, hoặc một nhóm người bỏ vốn thành lập, gọi là “trường tư thục”, loại trường sau thường chiếm tỷ lệ cao trong số các trường ngoài công lập. Sau một thời gian, cả hai loại trường “dân lập” và “trường tư thục” được gọi chung là “trường ngoài công lập” hoặc “trường tư thục” (xã hội hay gọi tắt là “trường tư”).
– Khu vực trường dân lập và tư thục, xét theo tiêu chí lợi nhuận và phi lợi nhuận (hay không vì lợi nhuận), có thể phân chia thành 2 loại:
+ Các trường theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Loại trường này có thể do một người hay một gia đình thành lập và thu lợi, nó giống như một doanh nghiệp tư nhân. Hoặc cũng có thể do một nhóm người thành lập và thu lợi, nó giống như một công ty TNHH. Các trường này phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo chính sách thuế hiện hành của Nhà nước, phần lãi còn lại sẽ được phân chia cho các nhà đầu tư theo tỷ lệ vốn góp.
+ Các trường tư thục phi lợi nhuận. Loại trường này, nếu nguồn thu đáp ứng cho các khoản chi, còn dư (không quan niệm là lợi nhuận), thì không đem chia cho người góp vốn, mà được để tái đầu tư vào sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Trường cũng không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo bằng các văn bản pháp lý hiện hành đã được Nhà nước quy định.
- Sự lựa chọn và xác lập mô hình
Ngày 15 tháng 6 năm 1996, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 405/TTg thành lập Trường Đại học dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội (HUMB) và ngày 19 tháng 5 năm 2006 ra Quyết định số 750/QĐ-TTg đổi tên thành Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội (HUBT).
Trường do Giáo sư Trần Phương – Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế, nguyên là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đứng đầu cùng các nhà sáng lập của trường – các nhà khoa học, trí thức, công chức nhà nước đã nghỉ hưu…. có tâm huyết vì sự hưng thịnh của nền giáo dục đại học nước nhà thành lập. Thời gian đó, tư nhân chưa được phép thành lập trường đại học, các trường đại học ngoài công lập đều do các tổ chức xã hội, hội nghề nghiệp thành lập và đều được “gắn” tên là dân lập.
Trường Đại học Dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội (viết tắt tiếng Anh là HUMB) do Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam thành lập gồm 21 thành viên sáng lập thành lập trường. Sau đó có thêm 7 người được GS Trần Phương chấp nhận góp vốn thành lập trường từ năm 1995.
Ngay từ những ngày đầu thành lập, dù mang tên Trường Đại học dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội, tiếp đó là Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, trường hoạt động theo mô hình của một trường đại học ngoài công lập: “dân lập” hay “tư thục” đều là trường hoạt động với mục tiêu không vì lợi nhuận.
Lựa chọn theo mô hình trên đây ngoài việc dựa trên nền tảng cấu trúc của một trường đại học ngoài công lập “tư thục” theo Quyết định của 3 văn bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành thì còn dựa trên tôn chỉ, mục đích và quy chế hoạt động của trường đã ban hành.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã vận dụng các Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg ngày 17/1/2005; Quyết định số 61/2019 QĐ-TTg ngày 17/4/2009; Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 vào việc thiết kế cấu trúc tổ chức, hệ thống quản lý chung, chế độ và cơ chế quản lý tài chính, nhân sự, v.v… Tuy nhiên, mô hình của Trường có những đặc điểm mang bản sắc riêng.
2.1. Những vấn đề chung
– Trường là một tổ chức hợp tác của những người lao động trí óc, tự nguyện góp sức, góp vốn để xây dựng và phát triển trường bền vững vì mục đích đào tạo nhân lực trình độ cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, không vì mục đích lợi nhuận;
– Trường là một đơn vị thành viên của Hội Khoa học kinh tế Việt Nam do Trung ương Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam thành lập và xây dựng theo mô hình tư thục, chịu sự quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chịu sự quản lý hành chính theo lãnh thổ của UBND thành phố Hà Nội;
– Trường có các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn sau:
+ Đào tạo về các ngành kinh tế, kinh doanh, quản lý, kỹ thuật công nghệ, bảo vệ sức khỏe, ngoại ngữ… với các bậc học đại học, sau đại học và với các hình thức đào tạo chính quy vừa học vừa làm, liên thông, trực tuyến.
+ Trường lấy đào tạo nghề nghiệp, thực hành làm định hướng chủ yếu; lấy chất lượng làm mục tiêu hàng đầu, không ngừng phấn đấu nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, nghiên cứu khoa học về kinh tế, kinh doanh quản lý, phát triển kỹ thuật công nghệ… nhằm không ngừng hoàn thiện phương pháp và nội dung đào tạo; thực hiện dịch vụ tư vấn về kinh doanh và các dịch vụ kỹ thuật công nghệ.
+ Hợp tác quốc tế về đào tạo, nghiên cứu khoa học, phù hợp với các chức năng của trường và các quy định của Nhà nước.
2.2. Về cổ phần, cổ đông, đại hội đồng cổ đông
– Về cổ phần: là số tiền do từng người góp lại để tạo thành vốn hoạt động của trường. Mỗi cổ phần được ấn định là một triệu đồng Việt Nam. Số tiền này được ấn định căn cứ vào giá trị của đồng Việt Nam ở thời điểm thành lập trường (tháng 6 năm 1996). Những khoản góp cổ phần sau thời điểm đó phải tính đến chỉ số giá cả (CPI) để tăng hay giảm. Mức tăng hay giảm này do Hội đồng Quản trị công bố cho từng thời điểm. Giấy chứng nhận cổ phần là giấy chứng nhận ghi danh.
– Về cổ đông: Để trở thành cổ đông, ngoài các thủ tục để được kết nạp công nhận là cổ đông của trường, phải có mức góp tối thiểu 10 (mười) cổ phần. Không phân định mức góp tối đa. Cổ đông có quyền dự đại hội đồng cổ đông, đồng thời phải hết lòng, hết sức trong phạm vi khả năng của mình góp phần vào việc xây dựng trường. Tuân thủ Quy chế và các quy định của trường, tham gia tích cực vào công việc của Đại hội đồng cổ đông, chấp hành các quyết định của Đại hội đồng cổ đông và của Hội đồng Quản trị. Nghĩa vụ của cổ đông:
+ Hết lòng, hết sức trong phạm vi khả năng của mình góp phần vào việc xây dựng và phát triển trường.
+ Bài trừ mọi hành vi tác hại đến lợi ích và thanh danh của trường, hoặc lợi dụng danh nghĩa của trường để mưu lợi ích riêng.
+ Xây dựng quan hệ hợp tác trung thực giữa các cổ đông với nhau, hình thành một tập thể đoàn kết, vì sự nghiệp cao cả của trường… Bài trừ mọi hành vi chia rẽ, gây rối nội bộ…
+ Người nào làm trái các nghĩa vụ trên thì Hội đồng Quản trị có quyền yêu cầu rút khỏi danh sách cổ đông.
+ Cổ đông được chuyển nhượng cổ phần và rút vốn theo quy định của Quy chế Tổ chức hoạt động của trường đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua tại kỳ đại hội.
– Đại hội đồng cổ đông: Đại hội đồng cổ đông là chủ tập thể của trường, là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của trường. Đại hội đồng cổ đông họp thường kỳ mỗi năm một lần để thảo luận các báo cáo, các đề án của Hội đồng Quản trị, của Ban Kiểm soát. Đại hội đồng cổ đông được triệu tập theo Quyết định của Hội đồng Quản trị và các yêu cầu khác được quy định trong Quy chế Tổ chức và hoạt động,…
2.3. Về tổ chức bộ máy
– Cơ cấu tổ chức bộ máy của trường gồm có:
+ Hội đồng Quản trị.
+ Ban Kiểm soát.
+ Ban Giám hiệu gồm: Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng.
– Các tổ chức trực thuộc Ban Giám hiệu bao gồm:
+ Hội đồng Khoa học và Đào tạo.
+ Các phòng, ban chức năng.
+ Các khoa.
+ Các tổ chức nghiên cứu khoa học, dịch vụ khoa học và dịch vụ đào tạo.
– Các tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội.
– Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi tổ chức bộ máy của trường đều được ban hành theo Quyết định của cấp có thẩm quyền của trường.
2.4. Về cán bộ, giảng viên, nhân viên và người học
– Cán bộ, giảng viên, nhân viên của trường làm việc theo chế độ hợp đồng dài hạn, ngắn hạn, được hưởng tiền lương và thù lao theo số lượng và chất lượng lao động thực tế cống hiến, được khen thưởng và đãi ngộ theo các quy định của trường.
+ Cán bộ, nhân viên, giảng viên cơ hữu là những người ký hợp đồng dài hạn từ 1 năm trở lên, được nhà trường đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của luật lao động; Nếu vi phạm quy định thì bị xử lý kỷ luật.
+ Giảng viên, nhà khoa học, nhà quản lý thuộc biên chế Nhà nước có thể làm việc cho trường theo chế độ thỉnh giảng, phù hợp với quy định của Nhà nước.
– Về người học: Ở các bậc học, các hình thức đào tạo được nhập học theo quy chế tuyển sinh và thực hiện đầy đủ các quy định của Quy chế sinh viên, học viên do trường ban hành.
2.5. Vốn, tài sản và tài chính
1/ Vốn, tài sản và tài chính của trường bao gồm các nội dung sau:
– Vốn điều lệ của trường gồm 2 thành phần: vốn góp cổ phần của các cổ đông. Vốn này thuộc sở hữu cá nhân của các cổ đông. Quỹ tích lũy không chia hình thành từ Quỹ phát triển, Quỹ dự phòng,… được tích tụ qua các năm từ ngày thành lập trường, đó là “Quỹ tích lũy không chia thuộc sở hữu tập thể của các cổ đông”. Quỹ này tạo lập nên trụ sở, cơ sở học tập, tài sản phục vụ cho học tập, v.v… Đó là cơ sở vật chất vững chắc cho sự trường tồn của trường.
2/ Nguồn thu của trường gồm có:
– Vốn góp (cổ phần) của các cổ đông;
– Học phí, lệ phí thu của người học;
– Thu từ dịch vụ đào tạo và các dịch vụ khác;
– Thu từ các hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ và hợp tác đào tạo, hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng bản quyền và sở hữu trí tuệ;
– Các khoản tích lũy từ kết quả hoạt động hàng năm của trường;
– Lãi tiền gửi ngân hàng;
– Thanh lý tài sản;
– Các khoản tài trợ, viện trợ, ủng hộ, quà tặng của các tổ chức cá nhân trong nước và nước ngoài;
– Các khoản tiền vay;
– Các khoản thu khác.
3/ Các khoản chi của Trường gồm có:
– Chi thường xuyên: Chi tiền lương, chi thù lao giờ giảng; chi cho đào tạo; chi cho hoạt động giảng dạy; các khoản cho cho người học; chi cho quản lý hành chính; chi trả tiền thuê trường sở; chi mua sắm tài sản; chi mua sắm thiết bị đào tạo; chi trả lợi tức vốn góp, lãi tiền vay; trích khấu hao tài sản cố định; trợ cấp nghỉ việc; trợ cấp khó khăn; chi cho hoạt động nhân đạo từ thiện; chi phí tuyển sinh; các khoản chi khác.
– Chi cho đầu tư phát triển: Xây dựng cơ bản, sửa chữa lớn nhà cửa,…
4/ Sử dụng thu nhập ròng của trường:
Thu nhập hàng năm trừ cho phí nếu có số dương là thu nhập ròng, được sử dụng để lập quỹ dự phòng, quỹ phúc lợi, quỹ phát triển.
2.6. Thanh tra – Kiểm tra
– Trường tổ chức công tác tự thanh tra, kiểm tra các hoạt động của trường theo quy định hiện hành. Trường chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
– Trường không cho phép bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào lợi dụng danh nghĩa của trường hoặc sử dụng các cơ sở của trường để tiến hành các hoạt động không phù hợp với tôn chỉ, mục đích của trường.
- Quá trình ổn định và phát triển cơ sở vật chất của trường
3.1. Ổn định – “an cư để lạc nghiệp”
Thời gian đầu sau khi thành lập, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của GS Trần Phương, để tiếp tục củng cố hoạt động, phát triển tiến lên của trường, việc đầu tiên phải lo ổn định trụ sở làm việc và các lớp học đáp ứng yêu cầu cho các ngành đào tạo đang có và tiếp tục được thành lập, như Tài chính – Kế toán, Thương mại… Trường đã thuê địa điểm 1B Cảm Hội làm trụ sở và nơi làm việc của Ban Giám hiệu, cũng như một số đơn vị chức năng, như Văn phòng, các phòng Tổ chức – Cán bộ, Tài vụ, Giáo vụ, v.v… và cũng là nơi tổ chức lớp học của Khoa Tin học.
Với sự phát triển không ngừng các ngành đào tạo, phải tiếp tục tuyển sinh theo giấy phép của Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp, trường tiếp tục đi thuê một trụ sở mới tại ngõ 651 Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Nơi đây nguyên là gara ô tô của Công ty Du lịch Hà Nội, có ngôi nhà hai tầng, sân để ô tô rộng rãi đủ sức chứa cho hàng nghìn sinh viên, đáp ứng kịp thời cho yêu cầu đào tạo và thư viện của trường, nơi làm việc của Phòng Tư liệu cung cấp giáo trình cho sinh viên, sao chép, in ấn các văn bản và phục vụ các nhu cầu cần thiết khác của trường và của sinh viên. Đây là mối quan tâm chú ý của Ban Giám hiệu nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo. Đây cũng là nơi làm việc của một số đơn vị chức năng, như các công ty, các trung tâm chuyên ngành do trường thành lập để phục vụ các hoạt động đào tạo và quản lý.
Như vậy, sau một thời gian trường phải di chuyển thuê mướn phòng học và nơi làm việc tại nhiều địa điểm khác nhau (Bệnh viện Nhi Thụy Điển, Ngõ Giếng…) nay đã đủ tiềm lực để thuê ổn định hai cơ sở 1B Cảm Hội và ngõ 651 Minh Khai. Ban Giám hiệu và Hội đồng Quản trị có thời gian suy nghĩ về kế hoạch và đề án xây dựng cơ sở của trường khang trang, hiện đại.
GS Trần Phương đã dự đoán trước tình hình và yêu cầu của sinh viên, bên cạnh hệ đào tạo đại học chính quy (có số lượng sinh viên đông nhất và ổn định nhất), trường đã trình Bộ cho phép mở thêm một số mã ngành, các hệ, các cấp đào tạo mới, như sau đại học, tại chức, đại học liên thông, du học… Các khoa chuyên ngành được tiếp tục mở ra.
Để đáp ứng những yêu cầu phát triển trên đây, trường cần phải mở mang ổn định trụ sở làm việc. Ban Giám hiệu đã lập dự án xin đất mở rộng diện tích xây dựng phục vụ giáo dục – đào tạo và phát triển trường để báo cáo UBND thành phố Hà Nội. UBND thành phố Hà Nội đã đồng ý và ngày 09 tháng 03 năm 2000 ra Quyết định số 980/QĐUB cấp cho trường 9.073 m2 và ngày 01 tháng 07 năm 2009 ra Quyết định số 3259/QĐUBND cấp tiếp 8.117 m2 cũng tại phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng (gọi tắt là Vĩnh Tuy 1 và Vĩnh Tuy 2).
3.2. Xây dựng cơ sở vật chất để làm nền tảng phát triển:
Với quy mô diện tích nêu trên, trường đã sử dụng khối kinh phí được tích lũy từ khi bắt đầu thành lập trường xây dựng 4 ngôi nhà tại đây. Nguồn kinh phí này là từ học phí của sinh viên và đóng góp của một số cổ đông, cụ thể như sau:
– Tại Vĩnh Tuy 1, xây dựng 2 ngôi nhà: Nhà A 7 tầng, Nhà B 6 tầng;
– Tại Vĩnh Tuy 2, xây dựng 2 ngôi nhà: Nhà C 10 tầng, Nhà D 9 tầng.
Tổng diện tích của 4 ngôi nhà trên tại Vĩnh Tuy là 17.190 m2.
Trong Thư viện của Trường có hàng nghìn đầu sách chuyên khảo và giáo trình của các ngành thuộc 4 khối đào tạo của trường: Kinh tế – Quản lý, Kỹ thuật – Công nghệ, Ngôn ngữ, Sức khỏe, hàng chục đầu báo và 200 máy tính phục vụ cho bạn đọc đến tra cứu, học tập.
Với sự phát triển không ngừng của các ngành đào tạo, cần phải có thêm nhiều chỗ cho sinh viên trong và ngoài nước (sinh viên Lào và Campuchia) học tập. Vì không thể bố trí ở Vĩnh Tuy được nữa, nên trường đã được Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam giao thực hiện dự án chi tiết trên diện tích 10,3 héc ta tại phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. GS Trần Phương lập đề án và triển khai xây dựng khu giảng đường, ký túc xá, sân vận động theo quy hoạch chung (Quyết định số 88/QĐ/2008/HKT-CT ngày 05 tháng 08 năm 2008 của Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam). Đây được gọi là Cơ sở 2 của trường.
Trường đã sử dụng nguồn kinh phí tích lũy (từ lợi nhuận không chia theo Quy chế Tổ chức và hoạt động của trường ban hành năm 2006) để xây dựng các công trình như sau:
– Nhà E 11 tầng, gồm có Hội trường và các giảng đường;
– Hai ký túc xá: K1, 6 tầng và K2, 8 tầng. Hai ký túc xá này phục vụ sinh viên Việt Nam và sinh viên Lào, Campuchia. Hàng năm có hàng nghìn sinh viên lưu trú tại ký túc xá của trường để phục vụ cho công việc học tập.
Tổng diện tích của 3 ngôi nhà tại Cơ sở 2 Từ Sơn là 99.018 m2.
Riêng sân vận động là nơi học tập và đào tạo của sinh viên hai khoa Giáo dục Thể chất và Giáo dục Quốc phòng. Ngoài việc học trên giảng đường, sinh viên hai khoa này còn phải ra sân vận động để học thực tế theo nội dung của giáo án.
Để làm nơi thực tập cho sinh viên Khối Sức khỏe, đồng thời đảm bảo việc chăm sóc sức khỏe cho sinh viên và giảng viên tại cơ sở Từ Sơn, GS Trần Phương đã bố trí sử dụng một số phòng ở tầng 1 của nhà K1 mở Phòng khám đa khoa Phúc An phục vụ khám chữa bệnh (Bảo hiểm y tế) cho nhân dân địa phương và sinh viên đang học tại đây.
Sau khi được UBND tỉnh Hòa Bình cấp sổ đỏ cho diện tích 98.712 m2 tại huyện Lương Sơn (thường gọi là Cơ sở 3 của trường), tại đây, GS Trần Phương cho xây dựng 3 ngôi nhà để đào tạo nghề lái xe, một sân sát hạch cấp bằng lái xe và đã trang bị 17 chiếc xe ô tô, trong đó có 4 xe tải dùng để sát hạch, 2 xe tải và 11 xe con dùng để đào tạo. Trung tâm Đào tạo lái xe, do Trường Cao đẳng Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội là đơn vị trực thuộc Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội thành lập, quản lý, chịu trách nhiệm tuyển sinh, đào tạo, sát hạch và cấp bằng tốt nghiệp.
Có thể đánh giá công lao của Ban Giám hiệu, Hội đồng Quản trị, tập thể các cán bộ quản lý, đội ngũ giảng viên và các cổ đông của trường đã hoàn thành sứ mệnh về lĩnh vực xây dựng trường sở qua nhiều giai đoạn phấn đấu sau 27 năm xây dựng và phát triển trường, tạo nên trường đại học tầm cỡ, hợp tác quốc tế ngày càng khang trang, hiện đại, to đẹp, đàng hoàng, đủ đáp ứng yêu cầu của 4 khối đào tạo là: Kinh tế – Quản lý; Kỹ thuật – Công nghệ; Ngôn ngữ; Sức khỏe, gồm 27 ngành nghề đào tạo hàng chục nghìn sinh viên và học viên. Hàng năm, cứ vào mùa tuyển sinh, các em lại náo nức, hồ hởi đăng ký thi vào Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội để trở thành một thành viên chính thức của trường.
- Trang thiết bị hiện đại phục vụ cho giáo dục – đào tạo
GS Trần Phương và Ban lãnh đạo của Trường HUBT đặc biệt quan tâm đến việc trang bị phương tiện học tập hiện đại nhằm làm cho cả thầy và trò trong Trường tiếp cận kịp thời với thành tựu mới nhất của công nghệ, nâng cao hiệu quả của quá trình dạy và học, đồng thời tạo điều kiện để môi trường học tập tiện nghi hơn. Trường đã trang bị hàng nghìn máy tính, bố trí tại 65 phòng học để mỗi sinh viên đều được sử dụng một máy tính riêng biệt. Số lượng máy tính và các phòng học này do Trung tâm Tin học của trường quản lý và khi lên lớp do giảng viên của Khoa Công nghệ thông tin giảng dạy và tổ chức thi trắc nghiệm trên máy tính.
1) Đối với Khối Kỹ thuật – Công nghệ, như Cơ – Điện tử, Công nghệ Ô tô, số lượng sinh viên ngày càng đông. Các phòng học lý thuyết của sinh viên bố trí tại Cơ sở 1 Vĩnh Tuy, còn máy móc cho sinh viên học thực hành được bố trí tại các phòng học ở Cơ sở 2 Từ Sơn. Đối với ngành Điện – Điện tử, thì các phòng học tại Cơ sở 1 Vĩnh Tuy được trang bị máy móc, kỹ thuật cần thiết. Tại đây, Khoa Điện – Điện tử đã thiết kế và cùng sinh viên xây dựng các tấm pin năng lượng mặt trời đặt trên các mái nhà vừa phục vụ đào tạo, vừa góp phần cải thiện việc sử dụng điện của trường.
2) Đối với Khối Sức khỏe, gồm các ngành Y đa khoa, Răng – Hàm – Mặt, Dược, Điều dưỡng và Phòng khám đa khoa Phúc An, trường đã đầu tư một khối lượng máy móc bố trí tại các phòng thực hành để phục vụ đào tạo sinh viên trúng tuyển vào trường từ năm 2013 đến nay, đảm bảo chất lượng tốt.
3) Đối với Khối Ngôn ngữ, 10 phòng học cabin tiếng Anh được trang bị máy tính để sinh viên học tập và giảng viên dạy trực tiếp cho sinh viên.
4) Các phương tiện máy móc, thiết bị khác:
– Đến nay, hầu hết các phòng làm việc của cả ba cơ sở của trường tại Vĩnh Tuy, Từ Sơn, Lương Sơn đều được lắp đặt máy điều hòa nhiệt độ;
– Tổng số các phòng học tại ba cơ sở (Vĩnh Tuy: 140 phòng; Từ Sơn: 43 phòng; Lương Sơn: 10 phòng), ngoài bàn ghế cho sinh viên, bàn cho giảng viên, bảng, đèn, quạt, v.v… đầy đủ phục vụ lớp học, ở một số phòng còn được lắp đặt máy chiếu projector phục vụ giảng dạy. Riêng Cơ sở 2 Từ Sơn có 6 phòng được trang bị máy tính để sinh viên học tập;
– Trường trang bị và quản lý 4 ô tô (tài sản cố định phục vụ việc đi công tác của cán bộ, giảng viên);
– Trường có máy phát điện, máy nổ để phục vụ cho hoạt động của trường, khi bị mất điện hoặc khi mạng lưới điện đóng lại để sửa chữa;
– Trường cũng trang bị một số máy bơm nước để phục vụ cho công tác cứu hỏa, phòng cháy, chữa cháy.
- “Vì sự nghiệp trồng người,không vì lợi nhuận” để không ngừng phát triển
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của GS Trần Phương – Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Hiệu trưởng, qua 27 năm xây dựng hoạt động và phát triển mô hình “trường đại học tư thục không vì lợi nhuận”, Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội có thể rút ra 10 điểm nhất sau đây so với các trường tư thục khác ở một số lĩnh vực:
1) Có nhiều cơ sở đào tạo nhất (1 cơ sở ở Vĩnh Tuy – Hà Nội, 1 cơ sở ở Từ Sơn – Bắc Ninh, 1 cơ sở ở Lương Sơn – Hòa Bình).
2) Có nhiều nhà làm việc và phòng học cho sinh viên nhất (13 ngôi nhà từ 2 tầng đến 11 tầng với hàng trăm phòng làm việc và phòng học: ở Vĩnh Tuy 5 nhà, ở Bắc Ninh 4 nhà, ở Hòa Bình 3 nhà).
3) Sở hữu nhiều diện tích đất nhất (214.920 m2).
4) Trang bị nhiều máy tính nhất tại 3 cơ sở (hiện nay máy tính có 3.190 bộ, máy in 292 cái, máy chiếu đa năng 312 cái).
5) Sử dụng nhiều ô tô nhất (21 chiếc ô tô để đi công tác và đào tạo lái xe).
6) Mở nhiều mã ngành nhất (27 ngành) của 4 khối đào tạo: Quản lý – Kinh tế, Công nghệ – Kỹ thuật, Khối sức khỏe, Khối Ngôn ngữ.
7) Có đội ngũ Cán bộ quản lý và giáo viên đông nhất (tổng số 1.189 người, trong đó Cán bộ Quản lý phòng, khoa là 581 người, giáo viên 608 người).
8) Có nhiều người học nhất (gồm người học Việt Nam, Lào, Campuchia, Trung Quốc, Nhật), bình quân 25.000 người/năm.
9) Được tặng thưởng nhiều huân chương và bằng khen nhất (3 Huân chương Lao động hạng 1, 2, 3; 16 Bằng khen của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, UBND thành phố Hà Nội).
10) Điều vinh dự nhất được đón tiếp các nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo Bộ Giáo dục Đào tạo và thành phố Hà Nội (Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, 2 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân, Phùng Xuân Nhạ, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh, thiếu niên, nhi đồng của Quốc hội Đào Trọng Thi, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Quốc Triệu, Phó Bí thư thường trực Thành ủy Hà Nội Ngô Thị Thanh Hằng).
Tóm lại, từ những kết quả nêu trên, có thể khẳng định rằng, bằng trí tuệ sức mạnh đoàn kết, tâm nguyện cùng sự lãnh đạo sáng suốt quyết đoán với sự đóng góp công sức và trí óc, sự đoàn kết đồng tâm nhất trí của GS Trần Phương, Ban Giám hiệu, Hội đồng Quản trị và các cổ đông, chúng ta đã xây dựng nên Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội khang trang, hiện đại phục vụ nhu cầu của xã hội, đáp ứng được mong mỏi và nguyên vọng của sinh viên, học viên khi vào học tại đây. Trường đã góp phần thực hiện triệt để, đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước về quốc sách xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam./.